Viết đoạn văn phân tích 15 câu đầu của bài văn tế Nghĩa sĩ cần giuộc.
2 câu trả lời
Viết đoạn văn phân tích 15 câu đầu của bài văn tế Nghĩa sĩ cần giuộc. :
câu trả lời
Ngày nay, đọc thơ văn Đồ Chiểu không chỉ thấy tâm huyết và tài nghệ của nhà thơ mà còn thấy cả một thời đại lịch sử, thấy lại cả dân tộc ta trong một thời kỳ đau thương nhưng vĩ đại. Văn thơ của Đồ Chiểu mãi mãi vẫn là món ăn tinh thần của người Việt Nam. Vì vậy Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận định: “Ngòi bút là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả thật là sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa quân … người anh hùng cứu nước”.
Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đó đã chứng minh được điều u nêu cao một tấm lòng yêu nước, quan tâm tha thiết đến vận mệnh của dân tộc và cũng là lời thở than chua xót.
Ngay sau khi được phổ biến, bài văn có tiếng vang rất lớn, nhất là trong nhân dân. Nó có giá trị mở đầu cho dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX. Bài văn được xây dựng trên cơ sở người thật, việc thật, cho nên ý nghĩa của nó càng trở nên sâu sắc …
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã làm xúc động lòng người bởi tiếng nói đầy “thương cảm”, bởi cái hay của văn chương bình dị, lời văn man mác, lắng đọng một nỗi đau vì dân vì nước. Mở đầu bài tế là lời than nghe thật chua xót:
“Hỡi ơi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”.
Chỉ một câu ngắn thôi, ta cũng thấy được cả một xã hội, thấy được hoàn cảnh ly loạn lúc bấy giờ. Kia là cuộc xâm lăng ào ạt, bạo tàn của kẻ thù và kia là bổn phận, ý chí chống quân bạo tàn đó của người nông dân. Nhân dân đau xót trước bao tang thương, áp bức nhưng ai có thể hiểu được ‘lòng dân” chứ. Họ chỉ tin có “trời”: “Lòng dân trời tỏ” vì chỉ có trời mới thấu hiểu được lòng dạ học, chứ cái bọn vua tôi hèn hạ khi nào biết gì, họ chỉ biết tự xưng danh mà thôi.
chúc bạn học tốt
- Nói đến văn tế chúng ta nghĩ ngay đến thể loại văn gắn bó với phong tục tang lễ. Các bài văn thế chủ yếu bày tỏ lòng tiếc thương với người đã mất và mang hai nội dung cơ bản kể về cuộc đời, công đức, phầm hạnh người đã mất và bày tỏ nỗi đau thương của người sống đối với người đã mất. Trong nền văn học cổ, có rất nhiều bài văn tế nhưng một trong những bài văn tế gây xúc động lòng người và mang tính sử thi bi tráng là tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình chiểu. Bài văn tế được Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của Đỗ Quang – tuần phủ Gia Định. Nội dung tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Đây là tác phẩm đầu tiên trong văn học, người nông dân nghĩa sĩ chống giặc ngoại xâm được dựng thành tượng đài nghệ thuật bất tử, gây xúc động lòng người khắp chốn. Trong đó 15 câu đầu bài văn tế đã xây dựng lên hình ảnh người nghĩa sĩ với vẻ mộc mạc, chân chất nhưng có tinh thần yêu nước nồng nàn, dũng cảm.
- Tác phẩm ra đời vào năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng. Chúng tiếp tục bành chướng bàng cách mở rộng tấn công các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc… Quá căm phẫn trước sự tàn ác đà đàn áp của kẻ thù, những người nông dân nghĩa sĩ tự đứng lên, chiến đấu tập kích đồn pháp ở Cần giuộc và tiêu diệt được hai tên quan Pháp cùng một số lính thuộc địa. Sau đó họ làm chủ được hai ngày rồi bị thất thủ. Nghĩa quân hi sinh khoảng 20 người. Đây là một cuộc chiến không cân sức, họ biết nhưng vẫn dũng cảm đứng lên, chính sự hi sinh của họ đã cổ vũ và khích lệ to lớn cho tinh thần yêu nước và chống giặc ngoại xâm. Cảm kích trước tấm lòng và lòng dũng cảm của họ, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ hi sinh trong trận đấu này.
- Phân tích 15 câu đầu bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc – Mở đầu bài văn tế là câu than Hỡi ôi! Tiếng than xót xa cho thân phận cuộc đời những người nghĩa sĩ, họ đã hi sinh ở chiến trường. Đây cũng là tiếng khóc thương cho thế nước hiểm nghèo:
Hỡi ôiSúng giặc, đất rền, lòng dân trời tỏNgay câu mở đâu Nguyễn Đình Chiểu đã cho thấy được hoàn cảnh của đất nước bấy giờ. Đó là tổ quốc đang lâm nguy, súng giặc nổ rền vang khắp trời, lòng dân hoang mang lo sợ. Lúc này đây cần lắm một cuộc chiến để có thể khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân. Bởi chúng ta đang ở thế yếu, chúng ta đang bị xâm chiếm, đất nước đang bị đau đớn, đang chảy máu bởi tiếng súng nổ khắp nơi. Nhân dân tan tác, sợ hãi.
Vậy mà, lúc này đây, người nghĩa sĩ đứng lên không ai khác chính là những người nông dân áo vải:
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ
Trong cảnh nước mất nhà tan thì chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh, đánh giặc cứu nước. Người nông dân vốn là những người lao động khốn khổ, quanh năm ruộng đất nào biết đánh nhau là gì. Vây mà khi tổ quốc cần, họ sẵn sàng gác cuốc, bỏ lại ruộng vườn, bỏ lại áo vải, khoác lên mình áo lính, cầm giáo xông lên đánh giặc. Trước sự hùng mạnh của kẻ thù là súng đạn bọc thép, người nông dân vẫn không sợ hãi, họ vẫn đứng lên chống lại kẻ thù vì quá căm phẫn trước sự tàn ác của chúng.
Câu văn tế trên cũng cho thấy, chỉ một trận đánh Tây mà họ tuy hi sinh nhưng tiếng thơm cả đời, âu cũng được an ủi phần nào.
Nhớ lính xưa
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó
Những người nghĩa sĩ ấy nguồn gốc chính là nông dân. Họ hàng ngày chỉ cun cút làm ăn, lo toan nghèo khó, quanh quẩn với cuộc sống hàng ngày mà không thoát được cái nghèo. Cả đời chỉ biết cuốc đất, làm vườn. Cách sử dụng từ “cun cút” cho thấy họ là những người thấp cổ bé họng, tội nghiệp, không tiếng nói. Họ chưa từng biết đánh trận là gì, họ thành thạo cày bừa cuốc mướn, nhưng giáo mác cờ ngựa thì chưa hề động đến.
Vậy mà khi tổ quốc lâm nguy, họ cũng không sợ hãi nề hà, họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh dù họ biết, với thế lực của mình khó có thể dành chiến thắng. Nhưng lòng căm thù giặc sôi sục không thể không đứng lên. Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc chính là những người tiên phong cho các cuộc kháng chiến trường kì sau này.
Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Lòng căm thù của các nghĩa sĩ nông dân thể hiện rõ trong câu văn tế trên. Nhìn thấy giặc chỉ muốn tới ăn gan và cắn cổ. Họ căm thù tới tận xương tủy. Lại nhớ đến bài Hịch Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn khi đau lòng trước cảnh giặc tàn phá cướp nước “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”
Các nghĩa sĩ nông dân dù quanh năm ruộng vườn mà lòng căm thù giặc không thua kém gì các bậc tiền tài yêu nước thương dân. Lòng dân căm phẫn cũng muốn ăn gan kẻ thù, dẫu cho phải chết cũng không hề thấy tiếc.
Phân tích 15 câu đầu bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc – Họ hiểu rằng, nước ta là một nước độc ập há gì lại để cho kẻ khác đứng lên trừ lũ xâm lăng mà không phải chính chúng ta tự đứng lên? Câu văn tế: Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi huowu, hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó đã khẳng định được chủ quyền dân tộc và lòng quyết tâm đánh đuổi kẻ thù. Đâu cần phải đợi và ai bắt, phen này họ ra sức đánh bại kẻ thù, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi… Tất cả đều nói lên lòng dũng cảm, căm thù giặc sâu sắc, ý chí sắt đá, kiên định của những người nghĩa sĩ nông dân. Điều mà không phải ai cũng có thể làm được.
Tiếp theo tác giả khẳng đinh một lần nữa, những người nghĩa sĩ nông dân này không hề biết gì đến chuyện đấu đá, đánh nhau, việc lính việc binh đao:
Vốn chẳng phải quân cơ vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Bởi vậy Nguyễn Đình Chiểu mới thốt lên Khá Thương Thay! Bởi vì họ là người nông dân đơn thuần vì lòng căm thù mà đứng lên chống giặc. Họ không hề có tấc sắt trong tay, không kinh nghiệm, không phải con nhà binh, ấy vậy mà dũng cảm đứng lên . Đây là một sự thương cảm, đồng cảm và xen lẫn sự cảm phục của tác giả đối với những con người hừng hực khí thế anh hùng ấy.
-
Dẫu vậy, tinh thần chiến đấu của họ vẫn không nguôi. Cuộc chiến của họ không chờ bày bố. Ngoài cật có manh áo vải, trong tay một ngọn tầm vong, chi nài sắm dao tu, nón gõ; hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia, gươm đeo bằng lưỡi dao phay… Như vậy, ta có thể thấy thế trận của bên ta khá đơn giản, các binh đao đánh trận chủ yếu là những dụng làm việc hàng ngày như dao phay rồi rơm con cúi. Họ ra trận bình thản với những gì có trên người hàng ngày. Một thế trận chênh lệch với kẻ thù khi kẻ thù sở hữu đạn thép, tàu đồng, súng nổ.
Ấy vậy mà tinh thần chiến đấu hào hực, nghĩa sĩ nông dân giết được tên quan pháp và một số lính thuộc địa,thậm chí còn cố thủ được 2 ngày. Dao phay vẫn chém được đầu kẻ thù, Rơm con cúi cũng đốt được nhà. Họ đã chiến đấu dũng cảm bằng tất cả lòng yêu nước và căm thù giặc. Đánh kẻ thù mà chẳng hề sợ hãi ““nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.” Và còn làm cho giặc thất kinh sợ hãi.
Các nghĩa sĩ Cần Giuộc đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cuộc chiến không cần khua chiêng gõ chống, nhưng tinh thần chiến đấu của họ hừng hực khí thế còn mạnh hơn cả bất kì tiếng trống nào. Họ đạp rào lướt tới, xô cưa xông vào, đâm ngang chém dọc… Tất cả những lời mô tả của Nguyễn Trãi đã thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, bất khuất, kiên cường của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.
- Tác phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc chính là bản hùng ca bi tráng vang danh lịch sử. Nó cũng chính là tấm lòng yêu thương của Nguyễn Trãi dành cho các nghĩa sĩ và niềm tự hào biết ơn sâu sắc nhân dân đối với những người nghĩa sĩ nông dân. Họ chính là tấm gương về lòng yêu nước nồng nàn, cổ vũ cho tinh thần yêu nước của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc.