Viết bài văn thuyết minh giới thiệu về nhà thơ Bằng Việt và bài thơ bếp lửa
2 câu trả lời
* thuyết minh về nhà thơ bằng việt
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Ông viết bài thơ Bếp lửa năm 1963 khi còn là sinh viên đang học đại học tại nước ngoài. Bếp lửa và Bằng Việt để lại ấn tượng sâu sắc về những tình cảm thuần hậu chân chất rất Việt nam.
Bằng Việt tên là Nguyễn Việt Bằng, sinh 1941, quê ở Thạch Thất – Hà Tây (nay là Hà Nội). Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 của thế kỉ XX, trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ Bằng Việt tài hoa, thường nghiêng về một lời tâm sự, một sự trao đổi nghĩ suy, nhưng vẫn trẻ trung, hồn nhiên và gây được cảm giác gần gũi, thân thiết đối với người đọc. Một đặc điểm nữa của thơ Bằng việt là sâu lắng trầm tư thích hợp với người đọc thơ trong sự trầm tĩnh, vắng lặng.
Đó là dấu ấn riêng của thơ Bằng Việt lưu lại trong ký ức người đọc. Ông là một trong số không nhiều nhà thơ trẻ được bạn đọc tin yêu ngay từ ban đầu. Sau tập thơ Hương cây bếp lửa in chung với Lưu Quang Vũ, ông có các tập thơ: Những khoảng trời, Đất sau mưa, Khoảng cách giữa lời… Tác giả đã được nhận Giải nhất văn học – nghệ thuật Hà Nội năm 1967 với bài thơ Trở lại trái tim mình. Giải thưởng chính thức về dịch thuật văn học quốc tế và phát triển giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa Bình (Liên Xô) trao tặng năm 1982.
Bài thơ Bếp lửa được Bằng Việt sáng tác vào năm 1963 khi đang học Đại học ở nước Nga, sau được in trong tập thơ Hương cây – bếp lửa. Bài thơ nói về tình bà cháu vừa sâu sắc, vừa thấm thía trong những năm đất nước gian khổ khó khăn. Gợi lại ký ức tuổi thơ, kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu qua hình tượng bếp lửa, ngọn lửa, bàn tay bà nhóm lửa để ca ngợi đức hy sinh, sự tần tảo và tình thương bao la của bà.
Qua đó thể hiện sự kính yêu thiết tha, lòng trân trọng và biết ơn của cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Bài thơ còn biểu hiện một triết luận thầm kín: những gì là thân thiết nhất của mỗi tuổi thơ mỗi con người, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ họ trong suốt cuộc đời.
Đến với Bếp lửa, ta bắt gặp giọng thơ nhẹ nhàng, mộc mạc mà thấm thía, sâu xa, phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm. Hình tượng thơ mang nhiều ý nghĩa biểu tượng và chiều sâu triết lí.
Trong cuộc sống hiện đại sẽ không còn nhiều người biết đến bếp lửa như bếp lửa của bà ở nơi quê nghèo ấy. Nhưng Bếp lửa và nhà thơ Bằng Việt mãi khơi gợi cho người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam.
* thuyết minh về bài thơ bếp lửa
Bằng Việt sinh năm 1941, quê tỉnh Hà Tây. Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ. Thơ Bằng Việt sâu trầm, tinh tế, bình dị dễ làm lay động lòng người.
Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963 khi tác giả rời xa quê hương học ngành luật ở Nga. Từ xa tổ quốc, nhà thơ bồi hồi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ, nhớ về quê hương vẫn còn đang trong cuộc chiến đau thương mất mát. Đặc biệt hình ảnh bếp lửa nồng đượm và người bà hiền hậu đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Mở đầu bài thơ hiện lên hình ảnh bếp lửa ấm áp trong làn sương lạnh chốn đồng quê:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Đoạn thơ làm hiện hình lên trong tâm trí người đọc hình ảnh bếp lửa quen thuộc, gần gũi của chốn đồng quê Việt Nam bình dị hiền hòa. Một bếp lửa nhỏ lẩn khuất trong sương trong gió nhưng luôn nồng đượm và ấm áp. Trong mái lá nhà tranh, e ấp trong lũy tre làng từng đêm từng ngày bếp lửa tắt rồi lại được nhóm lên.
Mấy ai là người Việt Nam mà không nhớ đến hình ảnh ấy. Bằng Việt đã lọc bỏ hết mọi yếu tố xung quanh để cho bếp lửa trở thành hình ảnh trung tâm, gây chú ý sâu sắc đối với người đọc. Ánh sáng và hơi ấm dường như tỏa khắp không gian, ấm vào cả lòng người.
Bếp lửa ấy không yên lặng mà nó luôn vận động. Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức. Ngọn lửa hắt hiu, chờn vờn theo gió, ấp iu biết bao nồng đượm, biết bao tình cảm mến yêu của con người. Hai từ láy “ấp iu” gợi nhớ đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp hằng ngày.
Từ đôi bàn tay cằn cỗi bà, ngọn lửa đã cháy lên. Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương vốn đã rất nồng ấm trong tim người cháu: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà. Ngọn lửa ấy đã trải qua bao nắng mưa gió rét để bùng cháy lên mỗi sớm, mỗi chiều. Ngọn lửa ấy cháy lên cùng với niềm vui, ánh sáng và niềm tin vững chắc vào cuộc sống dù đang còn biết bao gian khổ, nguy nan.
Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.
Từ hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng, nhà thơ tìm về với kí ức tuổi thơ những ngày sống cùng bà. Nhà thơ nhớ rất rõ từng giai đoạn thời gian bởi nó gắn với những kỉ niệm không thể nào quên. Hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa gắn với người bà.
Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về. Tiếng chim tu hú được nhắc lại đến bốn lần tạo nên một sự ám ảnh lớn.
Trong tâm lí con người, con chim tu hú luôn mang đến cho con người những điều không may mắn. Nó là đại diện của những gì xấu xa, ma quái, đầy chết chóc. Tiếng kêu u uất, đứt quãng, sầu bi của loài chim giấu mặt này luôn khiến cho người ta bất an, lo lắng. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong.
Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà. Có lẽ, lúc ấy tác giả không hề biết điều đó, lắng nghe âm thanh tiếng chim như dấu hiệu duy nhất với niềm tin vào sự đồng cảm trong sự sống đầy khó khăn của mình. Bởi thiên nhiên luôn là bạn, luôn đồng tình và không bao giờ phản bội con người.
Người bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.
Bếp lửa còn là biểu hiện cụ thể và đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc và yêu thương của người bà dành cho cháu con. Bếp lửa là tình bà ấm nồng, là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự sống niềm vui, tình yêu thương, niềm tin, và hi vọng cho cháu con, cho mọi người.
Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt biểu hiện một triết lí sâu sắc, đọng lại trong ta biết bao cảm phục. Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
Lép Tôn -xtôi đã từng nói rằng :”Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Chính tình yêu thương là hạt giống khơi mầm nên những kỉ niệm đẹp đẽ trong tuổi thơ của mỗi con người. Văn học là nơi để con người gửi gắm yêu thương, những tình cảm, cảm xúc tươi đẹp, cho ta những cảm xúc mà ta chưa từng có, để lại cho ta những vấn vương khiến ta mãi mãi không quên. Và bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt cũng vậy. Nếu tuổi thơ của chúng ta là hình ảnh của người mẹ, người ba luôn bồng bế, âu yếm thì đối với Bằng Việt, tuổi thơ của ông chỉ có duy nhất hình ảnh của bà và bếp lửa mà thôi. Bài thơ “Bếp lửa” thể hiện tình bà cháu cao quý của nhà thơ giữa chiến tranh khốc liệt, bi thương. Khi đọc bài thơ, người đọc sẽ xúc động trước những khó khăn của tác giả khi ông còn là một đứa trẻ, song những khó khăn ấy lại là những kỉ niệm đẹp đã nhất đời ông .
Bằng Việt là nhà nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ, lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh, nhà thơ hiểu rõ sự gian khổ, nhọc nhằn của những gia đình trong kháng chiến.Tâm hồn thơ Bằng Việt được Lê Đình Kỵ nhận xét : “Có một tâm hồn nhiều suy nghĩ và rung động tinh tế, một chủ nghĩa trữ tình xao động, bồi hồi, khi đậm đà duyên dáng, khi âm vang sây thẳm”. Nói về hoàn cảnh ra đời của bài thơ, Bằng Việt đã từng bộcbạch :“Những năm đầu theo học Luật tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dậy sớm đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai củ sắn cho cả nhà”. Bằng Việt đã đem nỗi niềm nhớ bà dồn nén hết vào bài thơ “bếp lửa”, được tác giả đưa vào tập “hương cây - bếp lửa”. Đoạn thơ trên là dòng chảy của quá khứ, một thước phim tua chậm về tuổi thơ của nhà thơ trong kháng chiến chống Pháp.