Tưởng tượng mình là người cháu trong bài thơ"Bếp lửa"của Bằng Việt.Hãy kể lại câu chuyện của tình ba cháu? 20 đến 40 đoạn
2 câu trả lời
Hồi ức về bếp lửa đã thổi luồng hơi ấm làm bớt đi cái lạnh lẽo của mùa đông xa quê. Nỗi nhớ quê có cha mẹ, có bà nội cứ day dứt hoài khôn nguôi. Nơi đó luôn vương vấn hình ảnh bà nội tảo tần hôm sớm. Dáng bà còng lưng thổi bếp, thổi mãi cho đến khi bếp cháy và toả ra luồng hơi ấm nồng nàn. Hơi ấm của lửa tràn khắp căn bếp nhỏ sưởi ấm tâm hồn đơn côi của hai bà cháu, sưởi ấm sự chờ mong và niềm tin vào ngày mai chiến thắng.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!…
"Tôi nghĩ rằng, chính sự quần tụ quanh bếp lửa của gia đình Việt là những ấn tượng về nét riêng biệt mà thiêng liêng giúp tôi làm nên những vần thơ đầy cảm xúc đó". Bên lửa và cùng với lửa, những người trong gia đình kể cho nhau nghe mọi chuyện trên đời, về sự khó khăn, may mắn và thành công. Không khí ấm cúng của gia đình Việt có lẽ không bao giờ thiếu lửa. Bên lửa muôn thuở vẫn là những người đàn bà mang dáng dấp và phong cách Việt Nam. Vì thế, đương nhiên, bà và bếp lửa trở thành hình tượng gần gũi, thân thương, cụ thể và trìu mến. Bà thổi hồn cho bếp, thổi vào đó tình cảm và trách nhiệm, lòng yêu thương cũng như sự hy sinh. "Tôi nhớ mãi hình ảnh bà đun bếp, phải khó khăn mới thổi được bếp lên, giữ cho lửa thật đều, thật đậm là cả một nghệ thuật". Những người phụ nữ Việt Nam luôn là hiện thân của sự gắn kết cuộc đời mình với bếp lửa, với sự nồng nàn ấm áp của lửa và một niềm tin
không thể chuyển lay.
"Cho đến ngày hôm nay, qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, tôi vẫn không sao quên được hình ảnh bà và ngọn lửa trong trái tim bà. Bà và bếp lửa. Hai hình tượng ấy có lẽ đã thực sự làm nên dấu ấn trong cuộc đời tôi. Bây giờ, cuộc sống thay đổi quá nhiều, bếp lửa truyền thống không còn vẻ hữu dụng của nó trong cuộc sống thường nhật nữa. Nó đã bị thay thế bằng đủ kiểu bếp nhanh hơn, tốt hơn. Cảnh xúm xít thiêng liêng quanh bếp lửa gia đình bỗng trở nên hiếm hoi hơn. Ăn uống cũng không thành vấn đề gì nặng nề nữa, từ cơm cặp lồng, đến cơm hộp rồi cơm nhà hàng, tự nhiên lại chạnh lòng nhớ tới bàn tay cần cù của bà chăm sóc nấu nướng thưở xa xưa".
Nhắc đến bà, vẫn thấy đâu đây cái mùi khói lan toả từ bếp của bà, sống mũi nhà thơ dường như vẫn còn cay. Bếp lửa thực ra chỉ là bếp lửa thôi, nhưng hồn bếp vẫn đi cùng năm tháng với ông, vẫn gắn với toàn bộ cuộc đời thơ ca của ông:
Giờ cháu đã đi xa
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà đã nhóm bếp lên chưa?…
Phải làm sao cho làn khói tan trong gió, mờ trong sương, khói ẩn vào cây, len vào rừng!". Chính cái cay cực ấy, cái lui cui khó nhọc ấy - những kỷ niệm thú vị về một thời đạn bom mà những ai đã trải qua đều không thể nào quên được, đã tạo nên những cảm xúc để sau này.Tôi nhớ mãi câu chuyện rất nhân văn của nhà văn Nga Koronenko. Trên con thuyền lạnh lẽo, đầy sương mù, người lái thuyền liên tục động viên lữ khách rằng đằng kia có ánh lửa, sắp đến nơi rồi. Nhưng, càng đi, ngọn lửa càng xa, mãi mãi không bao giờ đến được. Đó là một triết lý mang tính nhân đạo cũng có cái gì đó thật hoài niệm xót xa. Sự ấm cúng, tưởng có thể với tới, nhưng chẳng phải dễ dàng gì…
Những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi ấu thơ có sức tỏa sáng và nâng đỡ tâm hồn con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Hơn ai hết, tôi đã thấm thía sâu sắc điều ấy khi rời xa bà để ra nước ngoài học tập. Nơi phương trời xa xôi, mỗi khi nhớ về quê hương, tôi đều nhớ về bà và bếp lửa. Cái bếp lửa bình dị, thân thương của bà đã soi sáng kí ức tuổi thơ tôi và làm sống dậy bao kỉ niệm đẹp đẽ bên bà.
Ở nước Nga nơi tôi đang theo học ngành luật, người ta nấu bằng bếp ga, bếp điện, bếp từ nhưng không hiểu sao tôi vẫn nhớ hoài cái bếp lửa của bà, cái bếp lửa đun bằng củi, bằng rơm, bằng rạ quá đỗi gần gũi, quen thuộc với tuổi thơ tôi. Tôi vẫn nhớ mỗi buổi sáng sớm, bà đều thức dậy cặm cụi nhóm bếp, ngọn lửa chờn vờn trong làn sương sớm lúc mờ lúc tỏ, lúc to lúc nhỏ. Cái ngọn lửa ấp iu nồng đượm ấy đã cháy suốt tuổi thơ tôi và chứng kiến biết bao kỉ niệm đẹp đẽ của tôi bên bà.
Lên 4 tuổi tôi đã quen mùi khói bếp của bà. Tôi vẫn còn nhớ đó là năm 1945, năm xảy ra nạn đói khủng khiếp. Cả làng quê ảm đạm, tiêu điều xác xơ trong cái đói mòn đói mỏi, đói quay đói quắt. Bố đi đánh xe đến khô rạc ngựa gầy nhưng cũng chỉ đủ cho gia đình bữa rau, bữa cháo. Có một điều kì diệu là dù đói khát đến đâu thì cái bếp của bà bao giờ cũng vẫn đỏ lửa. Hàng ngày, bà đi nhặt nhạnh lá khô, cành cây rồi cần mẫn nhóm lửa . Tôi đã chứng kiến biết bao lần bà chật vật cho lửa bén vào củi ướt, củi chưa khô, khói hun nhèm cả mắt tôi, mắt bà, xộc thẳng vào mũi cay xè. Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn thấy sống mũi còn cay.
Rồi kháng chiến bùng nổ, bố mẹ lên chiến khu công tác, nhà chỉ có 2 bà cháu với nhau. Suốt tám năm ròng tôi cùng bà nhóm lửa. Tôi đã lớn lên trong sự đùm bọc, yêu thương của bà. Bên bếp lửa hồng bà chăm sóc cho tôi từng miếng ăn, giấc ngủ. Bà cũng là người thầy đầu tiên dạy tôi từ cách ăn, cách nói đến những bài học làm người. Tôi không sao quên được những buổi tối mùa hè, tiếng chim tu hú từ cánh đồng xa vọng lại thật thiết tha, khắc khoải. Khi ấy tôi đã thương biết bao nhiêu con chim tu hú cô đơn và thấy mình thật hạnh phúc vì luôn có bà bên cạnh. Trong tiếng chim tu hú, bà đã kể về những ngày tháng cơ cực của bà ở Huế. Lúc ấy tôi đã rất thương bầ và tự nhủ sau này lớn lên nhất định sẽ bù đắp cho những vất vả lam lũ của đời bà.
Tôi làm sao quên được năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi. Ngọn lửa bốc cao ngùn ngụt đã thiêu rụi cả làng tôi. Tất cả đều tan hoang trong khói lửa tàn ác của kẻ thù. Khi giặc rút đi, bà cháu tôi và mọi người mới lầm lụi quay trở về nhà. Nhưng nhà cửa chỉ còn là 1 đống tro tàn. Hàng xóm thương hai bà cháu đã giúp dựng tạm túp lều tranh. Khi ấy, tôi đã bảo với bà:
- Bà ơi, cháu viết thư gọi bố về dựng lại nhà cho hai bà cháu nhé.
Bà ôm tôi vào lòng, xoa đầu tôi và dặn:
- Bố mẹ còn phải lo việc kháng chiến. Cháu viết thư cho bố mẹ chớ kể này kể nọ, cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên để bố mẹ an tâm công tác.
Giờ đây, khi nhớ về những lời dặn dò ấy của bà, trong lòng tôi đã trào dâng niềm tự hào và cảm phục bà. Tôi đã nhận ra bà không chỉ giàu đức hi sinh, thương con, thương cháu mà còn giàu lòng yêu nước.
Rồi mỗi sớm, mỗi chiều, bàn tay bà lại chăm chút nhóm lên bếp lửa để luộc khoai, luộc sắn, để nấu nồi cơm gạo mới sẻ chung vui, để giúp tôi sưởi ấm qua biết bao mùa đông giá lạnh. Cái bếp lửa thiêng liêng, kì diệu của bà đã nhóm dậy trong lòng tôi niềm vui san sẻ, tình làng nghĩa xóm và cả bao ước mơ đẹp đẽ của tuổi ấu thơ. Đến bây giờ tôi đã hiểu tại sao dù cuộc sống có đầy biến động mà cái bếp của bà vẫn luôn đỏ lửa. Đó chính là nhờ ngọn lửa của sức sống, niềm tin và tình yêu thương luôn rực cháy trong trái tim bà. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước tôi trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Bây giờ tôi đã rời xa bà đến một chân trời mới. Cuộc sống đã rộng mở trước mắt tôi với biết bao niềm vui. Tôi đã biết đến khói trăm tàu, lửa trăm nhà và niềm vui trăm ngả nhưng trong lòng tôi ngọn lửa trong cái bếp của bà vẫn là kì diệu và thiêng liêng nhất. Ngọn lửa mà bà trao cho tôi đã trở thành hành trang quý giá giúp tôi tự tin vững bước trong cuộc đời.