Thương thay thân phận con tằm ... Dẫu kêu ra máu có người nào nghe. Hãy viết bài văn về đoạn ca dao trên
2 câu trả lời
Ca dao, dân ca không chỉ là tiếng hát về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước con người mà còn là những tiếng than than thân trách phận của những cuộc đời, cảnh ngộ bất hạnh, đắng cay. Ngoài ý nghĩa than thở, những bài ca dao mang tiếng nói từ những kiếp người nhỏ bé đáng thương còn là lời tố cáo đanh thép cái xã hội phong kiến bất công tàn ác. Chúng ta đã biết đến với một bài ca dao như thế:
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây.
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời.
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
Người lao động xưa khi nhìn thấy những con vật nhỏ bé tội nghiệp thường có sự đồng cảm tự nhiên và hay vận vào thân phận của mình. Chính vì vậy, toàn bộ bãi ca dao là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc về số phân hẩm hiu, khốn khổ. Con tằm bé nhỏ mà thật có ích. Chúng nhả ra những sợi tơ vàng óng dùng để dệt thành vải, lụa là phục vụ cho nhu cầu may mặc của con người. Nhưng chúng chỉ được ăn lá dâu – thứ lá tầm thường nơi bãi sông đồng ruộng. Đã vậy, sau khi giúp con người lấy được thứ cần thiết, thỏa mãn nhu cầu của con người thì tằm cũng chết. Cuộc đời tằm thật đáng thương, sống thì chẳng ăn được mấy mà cống hiến cho tới lúc lìa đời. Cuộc đời như thế khác nào cuộc đời người lao động xưa kia, suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực công lao. Họ bỏ ra quá nhiều nhưng chẳng hề được hưởng thụ dù chỉ là một chút thành quả lao động của mình. Đó chính là nguyên nhân của nghèo đói, của vất vả khó khăn và kéo dài trong bất công vô vọng.
Bé nhỏ hơn cả tằm là lũ kiến li li. Kiến sống thành đàn, đoàn kết hỗ trợ và giúp đỡ nhau. Ấy thế mà cả đời vẫn chỉ ngược xuôi tất bật. Người lao động trước đây cũng vậy, suốt đời vất vả ngược xuôi, cần cù làm lụng mà vẫn cơ cực nghèo khổ. Họ quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một nắng hai sương với đồng ruộng cây lúa mà nghèo vẫn hoàn nghèo.
Hình ảnh con cò, con vạc là hình ảnh vô cùng quen thuộc trong ca dao. Bởi người lao động nhìn thấy sự gần gũi thân thiết đến kì lạ giữa cái hình dáng lũ nghêu gầy guộc, cái dáng lầm lũi một mình lặn lội của chúng với thân phận hẩm hiu bé nhỏ của mình. Thương thay hạc lánh đường mây,Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho cuộc đời phiêu bạt lận đận và những cố gắng vô vọng kiếm sống qua ngày mà người lao động đang trải qua. Hơn thế, con đường mưu sinh thật lắm gian truân, bất trắc, lực lượng vất vả đã đành, họ còn bị bao hiểm nguy rình rập. Quả là kiếp sống tội nghiệp đáng thương.
Có lẽ, đáng thương nhất vẫn là tiếng kêu não nùng, tiếng kêu rạc cổ khô họng, kêu ra máu của con cuốc giữa trời. Mặc dù ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế đất nước, hận mà chết, biến thành con chim cuốc kêu ra rả suốt hè đến trào máu họng, nhưng nhân dân lao động xưa lại vận vào chính thân phận hèn kém của mình để nói lên nỗi bất công oan khuất. Song, những kẻ thấp cổ bé họng dù có kêu thấu trời cũng chẳng làm động lòng bọn thống trị nhẫn tâm, tàn ác. Họ chẳng có được sự cảm thông đồng điệu, sự công bằng soi tỏ. Như thế khác nào con cuốc cứ khắc khoải da diết mà phí công vô ích.
Người lao động xưa phải chịu nỗi khổ nhiều bề và tiếng kêu, tiếng than ai oán của họ thực sự khiến người đọc xúc động cảm thương. Trước mỗi hình ảnh bất hạnh đáng thương là mô-típ quen thuộc trong ca dao: mô-típ thương thay. Điệp ngữ ấy nối nhau kéo dài suốt tám dòng thơ diễn tả sự xót xa vô hạn, nỗi thương cảm dâng trào như những con sóng ập vào lòng người đọc. Đọc hết bài ca dao, ta nhận ra rằng, tác giả dân gian không phải chỉ thương thay, chỉ là người đứng bên cạnh cảm thông chia sẻ với những số phận bất hạnh, hẩm hiu mà đáng thương cho chính thân phận nghèo khổ bé mọn của mình
Hiện thực đen tối, tương lai mù mịt khiến nhân dân lao động xưa phải cất lên tiếng kêu, tiếng than ai oán. Ngày nay, cuộc sống chúng ta ấm no hạnh phúc vì có ánh sáng của Đảng, Cách mạng soi đường. Nhưng đọc những câu ca dao của một thời, chúng ta càng hiểu và đồng cảm với cha ông ta xưa, biết xót thương quá khứ, quý trọng cuộc sống hiện tại.
Dàn ý:
1. Mở bài
- Từ xa xưa, những bài ca dao Việt Nam với âm hưởng da diết, nhịp nhàng, dễ nhớ, dễ thuộc đã được người dân sáng tác và lưu truyền cho tới ngày nay
- “Thương thay thân phận con tằm” là một ví dụ tiêu biểu, nêu lên thân phận bé nhỏ của người nông dân trong xã hội cũ.
2. Thân bài
- Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát, âm hưởng mộc mạc, mềm mại
- Hình ảnh con tằm: Ẩn dụ cho con người nhỏ bé, con tằm nhả tơ óng ánh, xong là kết thúc chu kì sống, con người bị bóc lột sức lao động
- Hình ảnh con kiến: li ti nhỏ bé, chăm chỉ tha mồi, đại diện cho con người bán mặt cho đất, bán lưng cho trời
- Những hình ảnh quen thuộc đại diện cho người nông dân
3. Kết bài
- Cảm nghĩ về bài thơ: Xã hội phong kiến giống như địa ngục trần gian của những người nhân dân lao động, cuộc sống lầm than khổ cực khiến họ phải cất tiếng than ai oán qua những bài ca dao
Ca dao dân ca là những tiếng nói nghĩa tình, phản ánh về cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Một cuộc sống bình dị, đời thường nhưng trong xã hội ấy cũng có biết bao số phận éo le, bất hạnh. Thân phận thấp bé khiến họ chẳng thể kêu than với ai mà gửi gắm tâm tư qua những bài ca dao than thân:
Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe
Trong bài ca dao trên tác giả đã sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, thông qua thân phận của những con vật nhỏ bé, lam lũ trong cuộc sống để nói đến nỗi vất vả, cực nhọc của người nông dân. Bốn cặp câu lục bát nói đến bốn thân phận của những loài vật nhỏ bé và đều bắt đầu bằng cụm từ “thương thay”. Thể hiện nỗi niềm thương cảm, xót xa và cũng là sự đồng cảm, sẻ chia với những vất vả của mỗi số phận được nhắc đến. Đó là thân phận con tằm, suốt đời tằm chỉ ăn lá dâu và rồi bao tinh túy chắt lọc, để ra được sợi tơ quý. Tằm rút ruột mình để cho ngươi những sợi tơ óng ánh, quý giá. Lúc rút hết ruột cũng là lúc nó kết thúc cuộc đời của mình.Và khi ấy, thân xác chúng bị gạt bỏ, rẻ rúm. Những người nông dân bé cổ thấp họng trong xã hội cũ cũng vậy, cả đời khom lưng quỳ gối, bị bóc lột sức lao động đến hơi thở cuối cùng để làm giàu cho lũ địa chủ, quan tham tàn nhẫn và độc ác. Hình ảnh con tằm như đại diện cho bao kiếp người đau khổ, sống trong nỗi nhọc nhằn bị bòn gan rút ruột của nhân dân ta thời trước.
Hình ảnh thứ hai được nhắc đến là lũ kiến. Chúng là những sinh vật bé nhỏ nhất, ăn chẳng bao nhiêu nhưng cả đời cần mẫn, chăm chỉ đi tìm mồi. Lặng lẽ đi tha mồi về nuôi “kiến chúa” – con vật đứng đầu trong tổ, chỉ nằm một chờ “kiến thợ “tha những miếng mồi ngon nhất về để ăn. Đàn kiến thầm lặng nối đuôi nhau thành hàng dài đi kiếm mồi ở khắp mọi nơi mà chẳng oán thán một lời. Hình ảnh ẩn dụ đó khiến ta liên tưởng đến những kiếp người, cả đời lam lũ, làm nhiều chẳng hưởng được bao nhiêu, phải cung phụng những kẻ “ngồi mát ăn bát vàng”, những kẻ chuyên quyền ngồi trên chỉ tay sai bảo.
Còn đó là hình ảnh của con hạc gầy gò, cả đời bay mãi tìm nơi neo đậu mà chẳng biết về đâu dù đôi cánh đã mệt mỏi rã rời. Cánh chim ấy cứ bay mãi, nhẫn nại, cam chịu và rồi là tiếng than trong vô vọng. Kiếp người cũng vậy, thân phận nghèo hèn, làm lụng suốt đời mà chẳng biết tương lai rồi sẽ ra sao. Sự xót xa, ngậm ngùi cho thân phận đáng thương giữa dòng đồi nổi trôi, vô định.
HÌnh ảnh cuối cùng được nhắc đến là tiếng cuốc kêu giữa trời xanh vô tận, tiếng kêu ấy dẫu có nhỏ máu mà chết cũng chẳng ai thấu hiểu. Thân phận của những kẻ thấp cổ bé họng, những người lao động nghèo khổ tận cùng của xã hội, tiếng kêu ấy dẫu có oán thán đến đâu cũng chẳng một ai đoái hoài, cảm thông.
Bằng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc và điệp từ “Thương thay” được đặt ở đầu câu, đã nhấn mạnh nỗi vất vả, gian khó, thân phận thấp hèn của người dân lao động khi xưa. Qua đó, ta thêm cảm thông hơn với những ngày tháng đất nước còn chìm trong đêm trường áp bức, bóc lột của bè lũ quan tham, địa chủ còn tồn tại. Những câu ca dao sẽ mãi còn giá trị với thế hệ con cháu mai sau.