Tại sao nói ấn độ là 1 trong những nước Trung tâm văn hóa lớn của nhân loại
2 câu trả lời
Thuật ngữ địa lý Bharat (भारत, phát âm [ˈbʱaːrət̪] (nghe)), được Hiến pháp Ấn Độ công nhận là một tên gọi chính thức của quốc gia, được sử dụng trong nhiều ngôn ngữ Ấn Độ với các biến thể.[12] Bharat bắt nguồn từ tên của Bharata, một nhân vật thần học được kinh thánh Ấn Độ giáo mô tả là một hoàng đế truyền thuyết của Ấn Độ cổ đại. Hindustan ([ɦɪnd̪ʊˈst̪aːn] (nghe)) có nguồn gốc từ một từ trong tiếng Ba Tư có nghĩa là "Vùng đất của người Hindu"; trước năm 1947, thuật ngữ này ám chỉ một khu vực bao trùm lên bắc bộ Ấn Độ và Pakistan. Nó đôi khi được sử dụng để biểu thị toàn bộ Ấn Độ.[13][14]
Trong các thư tịch Trung Quốc, thời nhà Hán gọi khu vực là "Thân Độc" (身毒), hay "Thiên Trúc" (天竺). Tên gọi Ấn Độ (tiếng Trung: 印度; bính âm: Yìndù) xuất hiện lần đầu trong "Đại Đường Tây Vực ký" của cao tăng Huyền Trang đời nhà Đường.
Tên gọi India bắt nguồn từ Indus, từ này lại bắt nguồn từ một từ tiếng Ba Tư cổ là Hinduš. Thân từ của thuật ngữ tiếng Ba Tư bắt nguồn từ tiếng Phạn Sindhu, là tên gọi bản địa có tính lịch sử của sông Ấn (Indus).[15] Người Hy Lạp cổ đại gọi người Ấn Độ là Indoi (Ινδοί), có thể dịch là "người của Indus".[16]
Lịch sử
Bài chi tiết: Lịch sử Ấn Độ
Ấn Độ cổ đại
Người hiện đại về phương diện giải phẫu được cho là đến Nam Á từ 73.000 – 55.000 năm trở lại đây,[17] song các hài cốt được xác nhận của giống người này chỉ có niên đại sớm nhất là từ 30.000 năm trước.[18] Tại nhiều nơi trên tiểu lục địa Ấn Độ, người ta phát hiện được các di chỉ nghệ thuật trên đá gần cùng thời với thời đại đồ đá giữa, bao gồm các chỗ ở hang đá Bhimbetka tại Madhya Pradesh.[19] Khoảng năm 7000 TCN, các khu định cư thời đại đồ đá mới đầu tiên được biết đến đã xuất hiện trên tiểu lục địa, tại Mehrgarh và các di chỉ khác ở đông bộ Pakistan.[20] Chúng dần phát triển thành văn minh thung lũng sông Ấn,[21] là nền văn hóa đô thị đầu tiên tại Nam Á;[22] và phát triển hưng thịnh trong khoảng thời gian 2500–1900 TCN tại Pakistan và tây bộ Ấn Độ.[23] Nền văn minh này tập trung quanh các thành thị như Mohenjo-daro, Harappa, Dholavira, và Kalibangan, và dựa trên các hình thức sinh kế đa dạng, nền văn minh này có hoạt động sản xuất thủ công nghiệp mạnh cùng với mậu dịch trên phạm vi rộng.[22]
Trong giai đoạn 2000–500 TCN, xét theo khía cạnh văn hóa, nhiều khu vực tại tiểu lục địa chuyển đổi từ thời đại đồ đồng đá sang thời đại đồ sắt.[24] Vệ-đà là những thánh kinh cổ nhất của Ấn Độ giáo,[25] chúng được soạn trong giai đoạn này,[26] và các nhà sử học phân tích chúng để thừa nhận về một nền văn hóa Vệ-đà ở vùng Punjab và phần thượng của đồng bằng sông Hằng.[24] Hầu hết các sử gia cũng nhận định trong giai đoạn này có một vài làn sóng người Ấn-Arya nhập cư đến tiểu lục địa từ phía tây-bắc.[27][25][28] Chế độ đẳng cấp xuất hiện trong giai đoạn này, tạo nên một hệ thống thứ bậc gồm các tăng lữ, quân nhân, nông dân tự do, tuy nhiên loại trừ người dân bản địa bằng cách gán cho công việc của họ là thứ ô uế.[29] Trên cao nguyên Deccan, bằng chứng khảo cổ từ thời kỳ này khẳng định sự tồn tại của tổ chức chính trị ở một giai đoạn tù bang.[24] Tại nam bộ Ấn Độ, một lượng lớn các bia kỷ niệm cự thạch có niên đại từ thời kỳ này cho thấy có một sự tiến triển lên cuộc sống định cư, ngoài ra còn có các dấu vết về nông nghiệp, bể tưới tiêu, và thủ công truyền thống nằm không xa đó.[30]
Bức họa tại Các hang Ajanta, Aurangabad, bang tây bộ Maharashtra
Vào cuối giai đoạn Vệ-đà, khoảng thế kỷ V TCN, các tù bang nhỏ ở đồng bằng sông Hằng và tây-bắc thống nhất thành 16 quả đầu quốc và quân chủ quốc lớn, chúng được gọi là các mahajanapada.[31][32] Đô thị hóa nổi lên và các tính chất chính thống trong thời kỳ này cũng hình thành nên các phong trào tôn giáo không chính thống, hai trong số đó trở thành các tôn giáo độc lập. Phật giáo dựa trên lời dạy của Tất-đạt-đa Cồ-đàm, thu hút các môn đồ từ tất cả các tầng lớp xã hội trừ tầng lớp trung lưu; ghi chép biên niên sử về cuộc đời của Phật là trung tâm trong việc khởi đầu lịch sử thành văn tại Ấn Độ.[33][34][35] Đạo Jaina nổi lên trong thời kỳ của người mô phạm của nó là Mahavira.[36] Tại một thời kỳ mà đô thị thêm phần thịnh vương, cả hai tôn giáo đều duy trì sự từ bỏ như một tư tưởng,[37] và cả hai đều hình thành các truyền thống tu viện lâu dài. Về mặt chính trị, vào thế kỷ III TCN, Vương quốc Magadha (Ma Kiệt Đà) sáp nhập hoặc chinh phục các quốc gia khác để rồi nổi lên thành Đế quốc Maurya (Khổng Tước).[31] Đế quốc Maurya từng kiểm soát hầu hết tiểu lục địa ngoại trừ vùng viễn nam, song các khu vực lõi của nó nay bị phân ly bởi các khu vực tự trị lớn.[38][39] Các quốc vương của Maurya được biết đến nhiều với việc xây dựng đế quốc và quản lý sinh hoạt công cộng một cách quả quyết, như Ashoka từ bỏ chủ nghĩa quân phiệt và ủng hộ rộng rãi "Phật pháp".[40][41]
Văn học Sangam viết bằng tiếng Tamil tiết lộ rằng vào giai đoạn từ 200 TCN đến 200 CN, nam bộ bán đảo nằm dưới quyền quản lý của các triều đại Chera, Chola, và Pandya, các triều đại này có quan hệ mậu dịch rộng rãi với Đế quốc La Mã cũng như với khu vực Tây và Đông Nam Á.[42][43] Ở bắc bộ Ấn Độ, Ấn Độ giáo khẳng định quyền kiểm soát phụ quyền trong gia đình, khiến phụ nữ tăng thêm tính lệ thuộc.[44][31] Đến thế kỷ IV và V, Đế quốc Gupta được hình thành tại đồng bằng sông Hằng với một phức hệ về hành pháp và phú thuế, trở thành hình mẫu cho các vương quốc sau này tại Ấn Độ.[45][46] Dưới chế độ Gupta, Ấn Độ giáo hồi phục dựa trên cơ sở lòng sùng đạo thay vì quản lý lễ nghi và bắt đầu khẳng định được mình.[47] Sự phục hồi của Ấn Độ giáo thể hiện qua việc nở rộ các công trình điêu khắc và kiến trúc, những thứ trở nên quen thuộc trong một giới tinh hoa đô thị.[46] Văn học tiếng Phạn cổ điển cũng nở rộ, và khoa học, thiên văn học, y học, toán học Ấn Độ có các tiến bộ đáng kể.[46]
Ấn Độ trung đại
Tháp làm bằng đá granit của đền Brihadeeswarar tại Thanjavur, bang nam bộ Tamil Nadu được hoàn thành vào năm 1010, dưới triều Chola.
Thời kỳ Ấn Độ trung đại đầu kéo dài từ năm 600 đến năm 1200, có đặc điểm là các vương quốc mang tính khu vực và đa dạng văn hóa.[48] Khi người cai trị phần lớn đồng bằng Ấn-Hằng từ 606 đến 647 là Hoàng đế Harsha cố gắng khuếch trương về phía nam, ông chiến bại trước quân chủ của triều Chalukya ngự trị tại Deccan.[49] Khi người thừa tự của Harsha nỗ lực khuếch trương về phía đông, ông ta chiến bại trước quân chủ của Pala ngự trị tại Bengal.[49] Khi triều Chalukya nỗ lực khuếch trương về phía nam, họ chiến bại trước triều Pallava ở xa hơn về phía nam, triều Pallava lại đối đầu với triều Pandya và triều Chola ở xa hơn nữa về phía nam.[49] Không quân chủ nào trong giai đoạn này có thể thiết lập nên một đế quốc và kiểm soát liên tục các vùng đất nằm xa vùng lãnh thổ lõi của mình.[48] Trong thời kỳ này, các mục dân có đất đai bị phát quang để phát triển kinh tế nông nghiệp được thu nhận vào trong xã hội đẳng cấp, trở thành tầng lớp thống trị phi truyền thống mới.[50] Hệ thống đẳng cấp do đó bắt đầu thể hiện những khác biệt giữa các vùng.[50]
Trong thế kỷ VI và VII, các bài thánh ca cầu nguyện đầu tiên được sáng tác bằng tiếng Tamil.[51] Toàn Ấn Độ mô phỏng theo điều đó và khiến cho Ấn Độ giáo tái khởi, và toàn bộ các ngôn ngữ hiện đại trên tiểu lục địa có sự phát triển.[51] Các vương thất lớn nhỏ tại Ấn Độ cùng các đền thờ mà họ bảo trợ thu hút một lượng rất lớn các thần dân đến kinh thành, các kinh thành cũng trở thành những trung tâm kinh tế.[52] Các đô thị thánh đường với kính cỡ khác nhau bắt đầu xuất hiện khắp nơi khi Ấn Độ trải qua một quá trình đô thị hóa nữa.[52] Đến thế kỷ VIII và IX, các ảnh hưởng của Ấn Độ được nhận thấy tại Đông Nam Á, khi mà văn hóa và hệ thống chính trị Nam Á được truyền bá ra các vùng đất mà nay là một phần của Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaysia, và Java.[53] Các thương nhân, học giả, và đôi khi là quân nhân Ấn Độ tham gia vào sự truyền bá này; người Đông Nam Á cũng có sự chủ động, nhiều người lưu lại một thời gian trong các trường dòng Ấn Độ và dịch các văn bản Phật giáo và Ấn Độ giáo sang ngôn ngữ của họ.[53]
Các thị tộc du cư Trung Á sử dụng kỵ binh và có các đội quân đông đảo được thống nhất nhờ dân tộc và tôn giáo, sau thế kỷ X họ liên tiếp tràn qua các đồng bằng ở tây-bắc của Nam Á, cuối cùng hình thành nên Vương quốc Hồi giáo Delhi vào năm 1206.[54] Vương quốc này kiểm soát phần lớn bắc bộ Ấn Độ, tiến hành nhiều hoạt động đánh phá xuống nam bộ Ấn Độ. Mặc dù chính quyền Hồi giáo ban đầu phá vỡ giới tinh hoa Ấn Độ, song các thần dân phi Hồi giáo của vương quốc này phần lớn vẫn duy trì được luật lệ và phong tục riêng của họ.[55][56] Vương quốc Hồi giáo Delhi nhiều lần đẩy lui quân Mông Cổ trong thế kỷ XIII, cứu nguy Ấn Độ khỏi cảnh tàn phá giống như ở Trung và Tây Á. Vương quốc trở thành nơi định cư của những quân nhân bỏ trốn, người có học, pháp sư, thương gia, nghệ sĩ, thợ thủ công từ khu vực Trung và Tây Á, tạo nên một nền văn hóa Ấn-Hồi hổ lốn ở bắc bộ Ấn Độ.[57][58] Các cuộc đột kích của Vương quốc Hồi giáo Delhi và sự suy yếu của các vương quốc khu vực ở nam bộ Ấn Độ tạo điều kiện cho Đế quốc Vijayanagara bản địa hình thành.[59] Đế quốc phương nam này theo một truyền thống Shiva giáo mạnh mẽ và xây dựng nên kỹ thuật quân sự vượt lên trên Vương quốc Hồi giáo Delhi, kiểm soát được phần nhiều Ấn Độ Bán đảo,[60] và có ảnh hưởng đến xã hội nam bộ Ấn Độ trong một thời gian dài sau đó.[59]
Ấn Độ cận đại
Các họa sĩ và thư pháp gia đang làm việc (1590–1595), dưới thời Đế quốc Mogul.
Đầu thế kỷ XVI, bắc bộ Ấn Độ khi đó nằm dưới quyền cai trị của các quân chủ mà phần lớn theo Hồi giáo,[61] song một lần nữa lại sụp đổ trước tính linh động và hỏa lực vượt trội của một thế hệ các chiến binh Trung Á mới.[62] Đế quốc Mogul ra đời song không nghiền nát các xã hội địa phương, mà thay vào đó là cân bằng và bình định họ thông qua các thủ tục quản trị mới[63][64] cùng giới tinh hoa cầm quyền vốn có đặc điểm đa dạng và bao dung,[65] tạo ra một nền cai trị có hệ thống hơn, tập trung hóa và thống nhất.[66] Nhằm tránh xiềng xích bộ lạc và bản sắc Hồi giáo, đặc biệt là dưới thời Akbar, người Mogul đoàn kết đế chế rộng lớn của họ thông qua lòng trung thành đối với một hoàng đế có địa vị gần như thần thánh, biểu đạt một nền văn hóa Ba Tư hóa.[65] Các chính sách kinh tế quốc gia của Mogul, vốn có phần lớn nguồn thu đến từ nông nghiệp[67] và yêu cầu các khoản thuế phải trả theo tiền bạc được quản lý chặt,[68] khiến cho các nông dân và thợ thủ công tiến vào những thị trường lớn hơn.[66] Đế quốc giữ được tình hình tương đối hòa bình trong phần lớn thế kỷ XVII, và đây là một yếu tố giúp mở rộng kinh tế Ấn Độ,[66] kết quả là sự bảo trợ lớn hơn đối với hội họa, các loại hình văn chương, dệt, và kiến trúc.[69] Các nhóm xã hội mới kết hợp tại bắc bộ và tây bộ Ấn Độ, như Maratha, Rajput, và Sikh, giành được tham vọng về quân sự và quản trị dưới chế độ Mogul, và thông qua cộng tác hoặc tai họa, họ thu được cả sự công nhận và kinh nghiệm quân sự.[70] Sự mở rộng thương mại dưới chế độ Mogul giúp cho giới tinh hoa thương mại và chính trị Ấn Độ mới dọc theo các bờ biển nam bộ và đông bộ nổi bật lên.[70] Khi đế quốc tan rã, nhiều người trong giới tinh hoa này có thể theo đuổi và kiểm soát được công việc của họ.[71]
Đầu thế kỷ XVIII, khi mà ranh giới giữa thống trị thương mại và chính trị ngày càng bị lu mờ, một số công ty mậu dịch phương Tây, bao gồm Công ty Đông Ấn Anh, thiết lập nên các tiền đồn ven biển.[72][73] Công ty Đông Ấn Anh có quyền kiểm soát đối với các vùng biển, tiềm lực lớn hơn, có khả năng huấn luyện quân sự cùng công nghệ tiến bộ hơn, do vậy thu hút một bộ phận giới tinh hoa Ấn Độ. Nhờ đó, Công ty Đông Ấn Anh gặp thuận lợi trong việc giành quyền kiểm soát đối với vùng Bengal vào năm 1765 và gạt các công ty châu Âu khác ra ngoài lề.[74][72][75][76] Công ty Đông Ấn Anh tiếp tục tiếp cận được sự giàu có của Bengal, và sau khi tăng cường sức mạng và quy mô quân đội thì Công ty có năng lực thôn tính hoặc khuất phục hầu hết Ấn Độ vào thập niên 1820.[77] Ấn Độ sau đó không còn là nhà xuất khẩu hàng hóa chế tạo như một thời gian dài trước đó, mà trở thành một nơi cung cấp nguyên liệu cho Đế quốc Anh, và nhiều sử gia xem đây là lúc thời kỳ thực dân tại Ấn Độ bắt đầu.[72] Đương thời, do quyền lực kinh tế bị Nghị viện Anh Quốc tước bỏ một cách nghiêm trọng và do bản thân trên thực tế là một cánh tay nối dài của chính phủ Anh Quốc, Công ty Đông Ấn Anh bắt đầu có ý thức hơn trong việc tiến vào các hoạt động phi kinh tế như giáo dục, cải cách xã hội, và văn hóa.[78]
Các tôn giáo có nguồn gốc Ấn Độ như Ấn Độ giáo, đạo Jain, Phật giáo và đạo Sikh,[3] tất cả đều dựa trên khái niệm về pháp và nghiệp. Ahimsa, một triết lý về bất bạo động, là một khía cạnh quan trọng của tín ngưỡng bản địa Ấn Độ mà người đề xuất nổi tiếng nhất là Mahatma Gandhi, người với phong trào bất tuân dân sự đã đưa Ấn Độ cùng nhau chống lại chính quyền Raj của Anh và triết lý này tiếp tục truyền cảm hứng cho Martin Luther King, Jr. trong phong trào quyền dân sự tại Mỹ. Trong các cuộc chinh phạt của người Hồi giáo ở tiểu lục địa Ấn Độ, các tôn giáo có nguồn gốc Ấn Độ đã bị các nhà cai trị Hồi giáo đàn áp.[4] Những người cai trị Hồi giáo đã tàn sát người Ấn Độ giáo, Jaina giáo và Phật tử trong khi tấn công các đền thờ và tu viện, đồng thời buộc họ phải chuyển đổi tôn giáo kể cả trên chiến trường.[5] Hầu hết các ngôi đền lớn ở tiểu lục địa Bắc Ấn Độ đã bị phá hủy trong thời kỳ Hồi giáo.[6] Will Durant gọi cuộc chinh phục của người Hồi giáo Ấn Độ "có lẽ là câu chuyện đẫm máu nhất trong lịch sử",[7] trong thời gian giữa những năm 1000 và 1500, dân số của tiểu lục địa Ấn Độ đã giảm từ 125 đến 200 triệu người.[8][9] Tôn giáo xuất xứ nước ngoài, bao gồm cả các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, như Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, cũng đã có mặt ở Ấn Độ,[10] cũng như Hỏa giáo [11][12] và đạo Bahá'í [13][14], cả hai đều bỏ chạy khỏi sự bắt bớ của Hồi giáo [15][16][17] và các tôn giáo này đã tìm thấy nơi trú ẩn ở Ấn Độ trong nhiều thế kỷ.[18][19]
Ấn Độ có 29 bang có nền văn hóa và văn minh khác nhau và là một trong những quốc gia đông dân nhất thế giới.[20] Văn hóa Ấn Độ, thường được coi là sự pha trộn của một số nền văn hóa khác nhau, trải dài khắp tiểu lục địa Ấn Độ và đã bị ảnh hưởng và định hình bởi một lịch sử đã vài nghìn năm tuổi.[1][2] Xuyên suốt lịch sử Ấn Độ, văn hóa Ấn Độ chịu ảnh hưởng nặng nề của các tôn giáo Dharmic.[21] Họ đã được ghi nhận với việc định hình nhiều triết lý, văn học, kiến trúc, nghệ thuật và âm nhạc Ấn Độ.[22] Ấn Độ mở rộng là phạm vi lịch sử của văn hóa Ấn Độ vượt ra ngoài tiểu lục địa Ấn Độ. Điều này đặc biệt liên quan đến sự truyền bá của Ấn Độ giáo, Phật giáo, kiến trúc, hành chính và hệ thống chữ viết từ Ấn Độ đến các khu vực khác của châu Á thông qua Con đường tơ lụa của du khách và thương nhân hàng hải trong những thế kỷ đầu của kỷ nguyên chung.[23][24] Ở phía tây, Ấn Độ mở rộng trùng với Ba Tư mở rộng trong dãy núi Kush và Pamir của Ấn Độ giáo.[25] Trong nhiều thế kỷ, đã có sự hợp nhất đáng kể về văn hóa giữa những người Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo, Jain, Sikh và các nhóm dân tộc khác nhau ở Ấn Độ.[26][27]
Ấn Độ là một trong những quốc gia đa dạng về tôn giáo và dân tộc nhất trên thế giới, với một số xã hội và văn hóa mang tính tôn giáo sâu sắc nhất thế giới. Tôn giáo đóng một vai trò trung tâm và cơ bản trong cuộc sống của nhiều người dân. Mặc dù Ấn Độ là một quốc gia với đa số dân theo Ấn Độ giáo, nhưng có dân số Hồi giáo lớn. Trừ các vùng Jammu và Kashmir, Punjab, Meghalaya, Nagaland, Mizoram và Lakshadweep, quần thể người theo Ấn độ giáo hình thành chiếm ưu thế trong tất cả 29 tiểu bang và 7 vùng lãnh thổ. Người Hồi giáo có mặt trên khắp Ấn Độ, với dân số lớn ở Uttar Pradesh, Bihar, Maharashtra, Kerala, Telangana, Tây Bengal và Assam; trong khi chỉ có Jammu và Kashmir và Lakshadweep có đa số dân theo Hồi giáo. Người Sikh và Kitô hữu là những nhóm thiểu số đáng kể khác của Ấn Độ.
Ấn Độ là nơi phát sinh của Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jain, đạo Sikh và các tôn giáo khác. Chúng được gọi chung là tôn giáo Ấn Độ.[28] Các tôn giáo Ấn Độ là một hình thức chính của các tôn giáo thế giới cùng với các tôn giáo Abraham. Ngày nay, Ấn Độ giáo và Phật giáo là các tôn giáo lớn thứ ba và thứ tư trên thế giới, với hơn 2 tỷ tín đồ,[29][30][31] và có thể lên tới 2,5 hoặc 2,6 tỷ tín đồ.[29][32] Tín đồ của các tôn giáo Ấn Độ như Ấn Độ giáo, đạo Sikh, đạo Jain và Phật giáo chiếm khoảng 80-82% dân số Ấn Độ.
Theo điều tra dân số năm 2011, 79,8% dân số Ấn Độ theo đạo Hindu. Hồi giáo (14,2%), Kitô giáo (2,3%), đạo Sikh (1,7%), Phật giáo (0,7%) và đạo Jain (0,4%) là các tôn giáo lớn khác tại Ấn Độ.[33] Nhiều tôn giáo bộ lạc, chẳng hạn như Sarna, được tìm thấy ở Ấn Độ, mặc dù những điều này đã bị ảnh hưởng bởi các tôn giáo lớn như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo và Kitô giáo.[34] Jaina giáo, Hỏa giáo, Do Thái giáo và Bahá'í giáo cũng có ảnh hưởng nhưng số lượng người theo các đạo này nhỏ hơn.[34] Thuyết vô thần và bất khả tri cũng có ảnh hưởng rõ rệt ở Ấn Độ, cùng với sự khoan dung tự gán cho các tín ngưỡng khác.[34] Theo một nghiên cứu được thực hiện bởi Trung tâm nghiên cứu Pew, Ấn Độ sẽ có dân số người Ấn giáo và Hồi giáo lớn nhất thế giới vào năm 2050. Ấn Độ dự kiến sẽ có khoảng 311 triệu người Hồi giáo chiếm khoảng 19-20% dân số và khoảng 1,3 tỷ người Ấn giáo dự kiến sẽ sống ở Ấn Độ, chiếm khoảng 76% dân số.
Thuyết vô thần và thuyết bất khả tri có một lịch sử lâu dài ở Ấn Độ và phát triển mạnh trong phong trào Śramaṇa. Trường phái Cārvāka có nguồn gốc từ Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 6 TCN.[35][36] Đây là một trong những hình thức đầu tiên của phong trào duy vật và vô thần ở Ấn Độ cổ đại.[37][38] Sramana, Phật giáo, Jaina giáo, Ājīvika và một số trường phái Ấn giáo coi chủ nghĩa vô thần là hợp lệ và bác bỏ khái niệm Đấng sáng tạo, nghi lễ và mê tín.[39][40][41] Ấn Độ đã sản sinh ra một số chính trị gia vô thần và các nhà cải cách xã hội đáng chú ý.[42] Theo báo cáo Chỉ số Tôn giáo và Vô thần toàn cầu của WIN-Gallup năm 2012, 81% người Ấn Độ theo tôn giáo, 13% không theo tôn giáo, 3% là những người vô thần và 3% không chắc chắn hoặc không phản hồi.[43][44]