tại sao nhật bản phải thay đổi chiến lược phát triển kinh tế sau năm 1973
2 câu trả lời
Năm 1973, chiến tranh Trung Đông lần thứ 4 bùng nổ là một trong những nguyên nhân dẫn tới cú sốc dầu lửa. Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng âm trong năm 1974. Kỷ nguyên tăng trưởng nhanh chấm dứt.Tác động nghiêm trọng của cú sốc dầu lửa 1973-1975 đã khiến Nhật Bản phải tích cực triển khai chương trình tiết kiệm năng lượng, đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của khu vực dịch vụ. Trong khu vực chế tạo, giảm tỷ trọng của các ngành dùng nhiều năng lượng, tăng tỷ trọng của các ngành có hàm lượng tri thức cao (như sản xuất máy tính, máy bay, người máy công nghiệp, mạch tổ hợp,...), các ngành sản xuất theo mốt (quần áo chất lượng cao, đồ điện dân dụng, thiết bị nghe nhìn,...) và công nghiệp thông tin. Nhật Bản nhấn mạnh hơn nữa nghiên cứu khoa học cơ bản để có thể chuyển sang các ngành kinh tế mới.
( Tui nghĩ là vậy đóa)
hời Phục hưng, người châu Âu khá ngưỡng mộ Nhật Bản khi họ đến đất nước này vào thế kỷ XVI. Nhật Bản được coi là một quốc gia vô cùng giàu kim loại quý, một quan điểm bắt nguồn từ các câu chuyện về các chùa và cung điện dát vàng của Marco Polo,[1] và một phần cũng do sự phong phú tương đối của quặng bề mặt đặc trưng của một quốc gia núi lửa, trước khi khai thác sâu quy mô lớn trở nên khả thi trong thời đại công nghiệp. Nhật Bản đã trở thành một nước xuất khẩu lớn về đồng và bạc trong thời kỳ này.
Samurai Hasekura Tsunenaga ở Rome vào năm 1615, Coll. Borghese, Rome
Nhật Bản cũng được coi là một xã hội phong kiến tinh vi với nền văn hóa cao và công nghệ tiền công nghiệp tiên tiến. Nó đã có dân cư đông đúc và đô thị hóa. Các nhà quan sát châu Âu nổi tiếng thời bấy giờ dường như đồng ý rằng người Nhật "không chỉ vượt trội so với tất cả các dân tộc phương Đông khác, họ cũng vượt trội hơn cả người châu Âu"(Alessandro Valignano, 1584," Historia del Principo y Progresso de la Compania de Jesus en las Indias Orientales).
Những vị khách châu Âu thời kỳ đầu đã rất ngạc nhiên bởi chất lượng của nghề thủ công và kim thuộc của Nhật Bản. Điều này xuất phát từ thực tế rằng Nhật Bản khá nghèo về tài nguyên thiên nhiên thường thấy ở châu Âu, đặc biệt là sắt. Do đó, người Nhật nổi tiếng tiết kiệm tài nguyên tiêu hao của họ; những những tài nguyên ít ỏi mà họ có, họ đã sử dụng với các kỹ năng bậc thầy.
Mậu dịch với châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]
Hàng hóa của các tàu Bồ Đào Nha đầu tiên (thường là khoảng bốn tàu nhỏ mỗi năm) đến Nhật Bản bao gồm hầu như toàn bộ hàng hóa của Trung Quốc (lụa, sứ). Người Nhật rất mong muốn có được những hàng hóa như vậy nhưng đã bị cấm mọi liên hệ với Trung Quốc như một hình phạt vì cướp biển Oa Khấu. Do đó, người Bồ Đào Nha (được gọi là Nanban , người miền Nam man rợ) đã tìm thấy cơ hội đóng vai trò trung gian trong thương mại châu Á.
Một chiếc thuyền vuông Bồ Đào Nha ở Nagasaki vào thế kỉ XVII
Từ khi giành được Macau năm 1557, và được Trung Quốc chính thức công nhận là đối tác thương mại, Bồ Đào Nha bắt đầu điều chỉnh thương mại với Nhật Bản, bằng cách bán cho người trả giá cao nhất cho chuyến hàng thường niên đến Nhật, ảnh hưởng của việc trao độc quyền thương mại cho chỉ một chiếc thuyền vuông duy nhất đến Nhật mỗi năm. Thuyền vuông này là loại thuyền cực lớn, thường khoảng từ 1000 đến 1500 tấn, gấp đôi đến gấp ba lần kích cõ thuyền buồm tiêu chuẩn hay thuyền mành loại lớn.
Giao thương tiếp tục với một số gián đoạn cho đến năm 1638, khi nó bị cấm do cáo buộc các con tàu này đã lén đưa các tu sỹ vào Nhật Bản.
Thương mại Bồ Đào Nha càng ngày càng bị cạnh tranh gay gắt hơn từ những tàu buôn lậu Trung Quốc và các Châu ấn thuyền Nhật Bản từ khoảng 1592[2] (khoảng 10 tàu mỗi năm), thuyền Tây Ban Nha từ Manila từ khoảng 1600 (một tàu mỗi năm), Hà Lan từ 1609, người Anh từ 1613 (khoảng một tàu mỗi năm).
Người Hà Lan, thay vì gọi là "Nanban" mà gọi là "Kōmō" (紅毛, "Hồng Mao"), lần đầu tiên đến Nhật Bản năm 1600, trên con tàu Liefde. Hoa tiêu của họ là William Adams, người Anh đầu tiên đến Nhật Bản.[3] Năm 1605, hai thủy thủ tàu Liefde được Tokugawa Ieyasu gửi đến Pattani để mời người Hà Lan đến buôn bán với Nhật. Người đứng đầu thương điếm Hà Lan ở Pattani, Victor Sprinckel, từ chối với lý do rằng ông rất bận rộn khi phải đối đầu với người Bồ Đào Nha ở Đông Nam Á. Tuy vậy, năm 1609, người Hà Lan Jacques Specx cùng 2 tàu đến Hirado, và qua Adams nhận được đặc quyền thương mại từ Ieyasu.
Người Hà Lan cũng dính líu vào cướp biển và các cuộc hải chiến để làm suy yếu đội tàu Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha ở Thái Bình Dương, và cuối cùng trở thành nước phương Tây duy nhất được quyền tiếp cận Nhật Bản từ vùng đất nhỏ Dejima sau năm 1638 và tiếp diễn trong vòng hai thế kỷ sau đó.
Thời Edo[sửa | sửa mã nguồn]Bài chi tiết: Thời kỳ Edo § Kinh tếĐồng hồ do Nhật Bản sản xuất từ thế kỷ 18 hay Wadokei. Sau đó, thời gian thay đổi trong mùa vì từ bình minh đến hoàng hôn làm 12 giờ và từ hoàng hôn đến bình minh làm 12 giờ.
Phát triển kinh tế trong thời kỳ Edo bao gồm đô thị hóa, tăng vận chuyển hàng hóa, mở rộng đáng kể trong nước và bước đầu trao đổi thương mại với nước ngoài, sự phổ biến của thương mại và các ngành công nghiệp thủ công mỹ nghệ. Các ngành nghề xây dựng phát triển mạnh mẽ, cùng với các cơ sở ngân hàng và hiệp hội thương gia. Càng ngày, chính quyền Phiên giám sát sản xuất nông nghiệp đang gia tăng và sự lan rộng của thủ công mỹ nghệ nông thôn. Vào giữa thế kỷ 18, Edo có dân số hơn 1 triệu người. Osaka và Kyoto mỗi nơi có hơn 400.000 cư dân. Nhiều thị thành khác cũng phát triển. Osaka và Kyoto trở thành trung tâm thương mại và sản xuất thủ công mỹ nghệ bận rộn, trong khi Edo là trung tâm cung cấp thực phẩm và hàng tiêu dùng đô thị thiết yếu. Gạo là nền tảng của nền kinh tế, vì daimyō thu thuế từ nông dân dưới dạng gạo. Thuế cao, khoảng 40% thu hoạch. Gạo được bán tại chợ fudasashi ở Edo. Để kiếm tiền, daimyō đã sử dụng hợp đồng kỳ hạn để bán gạo chưa được thu hoạch. Các hợp đồng này tương tự như hợp đồng tương lai ngày nay.[4]
Sự khởi đầu của thời Edo trùng với những thập kỷ cuối cùng của thời kỳ thương mại Nanban. Trong thời gian đó, sự tương tác mạnh mẽ với các cường quốc châu Âu, trên phương diện kinh tế và tôn giáo, đã diễn ra. Vào đầu thời kỳ Edo, Nhật Bản đã chế tạo các tàu chiến kiểu phương Tây đi biển đầu tiên của hoàng gia, như San Juan Bautista , một chiếc tàu kiểu galleon nặng 500 tấn dùng để đoàn sứ thần Nhật Bản do Hasekura Tsunenaga dẫn đầu đến châu Mỹ và sau đó tiếp tục đến châu Âu. Cũng trong thời gian đó, bakufu đã vận hành khoảng 350 Châu Ấn Thuyền, một loai tàu thương mại ba cột buồm có vũ trang dùng cho thương mại nội Á. Các nhà thám hiểm Nhật Bản như Yamada Nagamasa đã hoạt động trên khắp châu Á.
Để xóa bỏ ảnh hưởng của Kitô giáo hóa, Nhật Bản bước vào thời kỳ cô lập gọi là sakoku, trong thời gian đó nền kinh tế của nước này được hưởng sự ổn định và tiến bộ nhẹ. Nhưng không lâu sau đó, vào những năm 1650, việc sản xuất sứ xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng lên rất nhiều khi cuộc nội chiến làm trung tâm sản xuất sứ chính của Trung Quốc là Cảnh Đức Trấn không hoạt động trong nhiều thập kỷ. Trong phần còn lại của thế kỷ 17, hầu hết sứ Nhật Bản được sản xuất ở Kyushu để xuất khẩu qua Trung Quốc và Hà Lan. Thương mại đã bị thu hẹp dưới sự cạnh tranh mới của Trung Quốc vào những năm 1740, trước khi nối lại sau khi Nhật Bản mở cửa vào giữa thế kỷ 19.[5]
Trong thời kỳ này, Nhật Bản đã dần dần nghiên cứu các khoa học và kỹ thuật phương Tây (được gọi là rangaku , nghĩa đen là "nghiên cứu Hà Lan" hay "Lan học") thông qua các thông tin và sách nhận được thông qua các thương nhân Hà Lan ở Dejima. Các lĩnh vực chính được nghiên cứu bao gồm địa lý, y học, khoa học tự nhiên, thiên văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, khoa học vật lý như nghiên cứu các hiện tượng điện và khoa học cơ học như được minh họa bởi sự phát triển của đồng hồ Nhật Bản hay wadokei, lấy cảm hứng từ kỹ thuật phương Tây.