Qua 'Bài thơ ngất ngưởng', em thấy Nguyễn Công Trứ đánh giá như thế nào về sự "ngất ngưởng" của mình? Ý nghĩa của phong cách sống ngất ngưởng được nêu lên trong bài thơ? (lập dàn ý chi tiết)

2 câu trả lời

A, MB

- giới thiệu tác giả Nguyễn Công Trứ: Tác gỉa Nguyễn Công Trứ là người huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông được sinh ra trong một gia đình nho học nghèo khó, nhưng nhờ thế mà ông có điều kiện được tham gia vào sinh hoạt ca trù ở gần làng ông sống. Ông từng đỗ Trạng Nguyên và được bổ nhiệm làm quan, nhưng cuộc đời làm quan của ông không bằng phẳng, giáng chức lên chức thất thường. Thế nhưng, ông vẫn là một bậc kì tài về văn học, văn hóa, quân sự,... Sáng tác của ông chủ yếu bằng chữ Nôm, và ông cũng là người đem đến linh hồn cho hát nói của dân tộc.

- "Bài ca ngất ngưởng" chính là tác phẩm mang đậm chất hát nói đặc sắc, vừa có tính chất ca nhạc, vừa có tính chất của thơ. Nhờ thế, thông điệp mà tác phẩm truyền đạt đó là sự tự do, phóng khoáng cá nhân của chính tác giả

B, TB

1, Sự tự đánh giá của tác giả về lối sống ngất ngưởng của mình.

- Quan niệm sống ngất ngưởng của tác giả đầu tiên được thể hiện ở toàn bộ bài thơ.

- Đầu tiên, tác giả cho rằng mọi việc trên thế giới đều nằm trong phận sự của chính mình "Vũ trụ nội mạc phi phận sự". Ngay từ câu thơ mở đầu, tác giả đã cho thấy tầm vóc của chính mình, đối với những công việc mà được trời đất giao phó. Chẳng những thế, tác giả còn đề cập đến hình ảnh ẩn dụ đặc sắc "đã vào lồng". Ý của tác giả đó là việc làm quan thì chẳng khác nào tự giam hãm mình trong một cái lồng mất tự do. 

- Hai câu tiếp theo không chỉ tóm tắt được cuộc đời làm quan thăng trầm của chính tác giả mà còn nhấn mạnh được phong thái ngất ngưởng, chủ nghĩa tự do cá nhân của tác giả. Dù cho có lúc làm quan to hay có lúc làm quan nhỏ, thì với tài năng và trí tuệ của mình, Nguyễn CôngTrứ vẫn tự gọi mình với niềm kiêu hãnh, tự hào là "tay ngất ngưởng". Đây không phải là một sự kiêu ngạo, tự phụ mà đây là một sự tự hào về chính mình, khát khao tự do và có chủ nghĩa cá nhân, giải phóng cá nhân của tác giả. Dường như, sự ngất ngưởng của tác giả không gắn liền với việc làm quan to hay của cải, sự ngất ngưởng của tác giả đó là được tự do, được là chính mình.

- Và khi ông cáo quan về quê, hình ảnh của Nguyễn Công Trứ hiện lên với tư thế ngất ngưởng của một ông quan cưỡi bò đeo nhạc ngựa. Ý của ông đó là che miệng nhân gian. Sự ngất ngưởng của ông chính là sự can đảm và bất chấp những gièm pha, định kiến mà chính xã hội đặt ra cho mình.

- Những câu cuối đã thể hiện được tinh thần ngất ngưởng của ông. Mặc cho định kiến của nhân gian, ông vẫn vô tư tận hưởng những thú vui của cuộc sống. Ông đem đến niềm vui cho chính mình, coi đó là  sự hạnh phúc, là sự tận hưởng thực sự và không còn để ý hay quan tâm đến chuyện được mất thêm nữa.

2, Ý nghĩa của phong cách sống ngất ngưởng nêu trong bài thơ.

- Dù cho bài thơ đã ra đời cách đây khá lâu nhưng bài thơ lại có chủ đề khát vọng tự do cá nhân khá tiến bộ và mới mẻ, hiện đại. 

- Bài thơ không chỉ khuyến khích một lối sống đề cao tự do, dân chủ cá nhân mà còn thể hiện được lối sống không màng danh lợi để mà tận hưởng thú vui của cuộc sống, khám phá ý nghĩa thực sự của cuộc sống.

- Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, thông điệp của ông lại càng trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết.

C, KB

Tóm lại, thái độ sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ là một thái độ sống vô cùng cao đẹp và đáng được học hỏi. Đó chính là thái độ sống của con người tài giỏi nhưng không màng danh lợi, muốn được cống hiến và tận hưởng cuộc sống.

Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) sinh ra và lớn lên trong bối cảnh lịch sử đó. Là một con người tài năng, đức độ luôn khao khát lập công danh sự nghiệp, Nguyễn Công Trứ đã theo đuổi sự nghiệp quan trường. Tuy nhiên với lối sống phóng khoáng, ông không chịu khép mình trong luật lệ hà khắc mà luôn muốn thoát ra khỏi vòng cương toả, sống “ngất ngưởng” với đời. “Bức chân dung” về bản thân đã được ông tự họa lại trong tác phẩm kiệt xuất Bài ca ngấtngưởng.

Để họa bức chân dung đó, Nguyễn Công Trứ đã chọn một thể loại hết sức phù hợp, “hát nói”, một thể hiện của ca trù. Sự lựa chọn một thể thơ tương đối tự do đó đã chứng tỏông là một con người sống rất phóng khoáng. Nhưng hơn thế, Nguyễn Công Trứ trong tác phẩm này cũng như ngoài đời sống còn là một Nguyễn Công Trứ ngông nghênh và “ngất ngưởng” ở các vị trí then chốt của bài thơ, một từở nhan đề, ba từở cuối mỗi khổ thơ, một từởcâu kết, câu thâu tóm ý toàn bài. Theo nghĩa thông thường, “ngất ngưởng” chỉ trạng thái của một có độ cao nhưng không chịu giữ yên vị trí mà cứ lúc lắc, chông chênh chực như đổ xuống song lại không đổ. Tuy nhiên, “ngất ngưởng” trong tác phẩm không chỉ là một cử chỉ, hành động nhất thời mà chỉ một tư thế riêng, một phong cách sống, vượt lên trên thế tục, khác đời, khác người đối lập với xung quanh. Vì đã là phong cách sống nên Nguyễn Công Trứ luôn luôn “ngất ngưởng” dù khi ông làm quan đương triều hay khi đã cáo lão về quê.

Ngay từ thời trai trẻ, vị quan họ Nguyễn này đã khao khát lập công danh và coi đó

là lẽ sống:

Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh gì với núi sông.

Vì vậy khi đã làm quan, ông luôn có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình trong cuộc đời:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự

(Trong vũ trụ không có việc nào không phải phận sự cua ta)

Quan niệm này đã được ông nhắc tới nhiều lần trong các tác phẩm của mình như rong Gánh trung hiếu,ông viết “Vũ trụ chức phận nội” và Luận kẻsĩ,“Vũ trụ giao ngô phận sự”. Nhưng câu thơ chữ Hán trang trọng này không chỉ đơn thuần nói tới phận sự của bậc “tu mi nam tử” mà còn cao hơn, rộng hơn, nó cho ta thấy niềm tự hào của nhà thơ vềsựcó mặt của mình trong cuộc đời và sự kiêu hãnh khi được đóng góp sức mình cho đất nước. Suy nghĩ này đã khiến Nguyễn Công Trứ nói vềmình đầy tựhào ở câu sau:

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Cách xưng tên, biệt liệu đã được nhiều tác giả nhắc tới trong các tác phẩm của mình như Hồ Xuân Hương trong Tự tìnhhay Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kỷ… nhưng cách gọi mình đầy kính trọng “ông” thì ta mới chỉ gặp ở Nguyễn Công Trứ. Bản thân ông cho rằng mình có tài và các tài năng đó đã trở thành bộ dạng, phong cách được xếp vào lồng trời đất. Cái lối nói “khoa trương” đó khiến nhiều người sẽ nghĩ ông là người “khoe mẽ” nhưng thực chất đó là tiếng nói chân thành của một con người có ý thức sâu sắc về giá trị cá nhân, ở đây Nguyễn Công Trứ nói mình đã vào lồng. Điều này xem ra có phần khác so với thời trai trẻ:

Chí làm trai nam, bắc, đông, tây,

Cho thoả sức vẫy vùng bốn bể.

Tuy nhiên, Nguyễn Công Trứ giờ đây đã là một vị quan từng trải đủ mọi phiền luỵchốn quan trường. “Lợm mùi giáng chức với thăng quan” nên suy nghĩ đó là không tránh khỏi. Mặc dầu vậy, khi nhắc tới những gì mình đã làm ông không khỏi hạnh phúc, tự hào:

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Khi bình Táy, cờ đại tướng,

Có khi về Phủdoãn Thừa Thiên.

Một loạt những từ Hán Việt mang sắc thái trang trọng “Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông, bình Tây, đại tướng, Phủdoãn” cùng với biện pháp hệt kê “lúc, khi” đã chứng tỏông là một con người “văn võ toàn tài” và ông tự hào về điều đó:

Gồm thao lược dã nên tay ngất ngưởng

Tay “ngất ngưởng” cho phép ta hiểu rằng mặc dầu đang làm quan bị trói mình trong phép “phụ tử, quân thần” Nguyễn Công Trứ vẫn luôn sống ngất ngưởng vượt lên trên, khác hẳn với lũ vua quan sa đoạ chỉ biết ăn chơi hưởng lạc “Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen”. Nét độc đáo ở cách nói này còn ở chỗông nói về mình mà lại đứng ngoài mình nhằm thể hiện sự đồng tình của công luận.

Khi làm quan đã “ngất ngưởng” như vậy nhưng khi về hưu ông cũng “ngất ngưởng” hơn. Mười ba câu trong mười chín câu thơ, ba trên năm từ “ngất ngưởng” của cả bài tập trung vào đoạn này đã thể hiện điều đó. Có lẽ khi thoát khỏi chốn quan trường, ông càng có cơ hội bộc lộ mình hơn, sống thoải mái hơn. Như các vị quan khác, khi cáo lão có vật phẩm vua ban, cưỡi ngựa về làng… thì vị quan họ Nguyên lại hoàn toàn khác. Ân tượng về ngày “đô môn giải tổ” còn đọng lại trong ông chỉcó một sự kiện:

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

“Đạc ngựa” mà lại đi đeo cho bò vàng. Một thứ trang sức của một con vật cao sang lại đem đeo cho một con vật bình thường chứng tỏ Nguyễn Công Trứ là người không để ý tới sự giàu sang. Hành động có phần ngông đó lại một lần nữa khẳng định ông “ngất ngưởng”.

Là một con người phóng khoáng, ưa cuộc sống hưởng thụ, việc giao du sơn thuỷ vui thú tuổi già là không có gì lạở một con người như Nguyễn Công Trứ:

Kìa núi nọ phau phau mây trắng

Nhưng ở đây điều đáng nói là ông không “ngao du” một cách bình thường mà lại khác người, khác đời:

Tay kiếmxung mà nên dạng từ bi Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì

Nguyễn Công Trứ giờ đây không còn là một vị quan một vị tướng quân từng dẹp loạn ở biên giới Tây Bắc hay đánh giặc ở biên giới Tây Nam mà là một cụ già trong dáng dấp tín đồ nhà Phật “từ bi” với “gót tiên”. Nhưng con người ấy khi đến nơi thanh tịnh lại dắt theo một đôi dì, lại làm một điều “chướng” bằng một phong cách khá “đủng đinh”. Ông bước từng bước chậm rãi không hề giấu giếm những việc mình làm. Điều đó có lẽ chưa có ai dám làm ngoài Nguyễn Công Trứ. Trước hành động “ngông ngạo” đó, Bụt không còn cách nào khác là phì cười. Nguyễn Công Trứ đã chứng tỏ mình không chỉ ngông khi làm quan, khi ở làng quê mà cảở những nơi ít người ngờ tới nhất.; Sự “ngất ngưởng” đó của ông không chỉ được người đời thừa nhận mà cả Bụt cũng vậy: “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.

Sự “ngông nghênh” của Nguyễn Công Trứ không phải là một sự ngông nghênh vô lối, tự cao, tự đại, ông “ngất ngưởng” và thoát ra khỏi cái xã hội mục nát lúc bấy giờ. Ông theo đuổi kiểu sống hưởng thụ nhưng vẫn đề ra và thực hiện triết lý sống của riêng mình:

Được mất dương dương người tái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn dông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không Phật, không tiên, không vướng tục.

Đối với những người bình thường, chuyện được, mất, khen, chê đã rất quan trọng với cuộc sống của họ. Nhưng cụ Nguyễn lại khác, ông coi đó như cơn gió thoảng qua và chẳng có gì đáng phải nói tới. Dù được hay mất thì ông vẫn cứ “dương dương” như người tái thượng hay “phơi phới” như ngọn gió đông. Ông vui thú với chén rượu, lời ca, tiếng trống chầu và những cuộc hành lạc. Ông khẳng định ông không bị chi phối bởi tiên Phật cũng không phạm vào thói tục, ông sống theo triết lý sống của riêng mình và vui thú với cách sống đó.

Tuy nhiên, Nguyễn Công Trứ vẫn luôn mang nặng trong mình tư tưởng sống sao có ích, sao lưu lại tiếng thơm sao cho vẹn nghĩa quân thần:

Chẳng Trái, Nhạc cũng phường Hàn, Phú,

Nghĩa vua tôi trọn vẹn dạo sơ chung.

Dù ông có “ngất ngưởng” hay vui chơi thoả chí, thoả thích thế nào đi chăng nữa, ông vẫn luôn lo lắng cho đất nước, coi việc “kinh bang tế thế” phò vua là trách nhiệm, là điều phải làm. Ông là một con người “sơ chung” mãi mãi không thay đổi tấm lòng son sắt đó.

Kết lại bài thơ là một câu nói đầy thách thức:

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Đây là một câu hỏi cũng là một câu hỏi tu từ. Ông như thách thức với cả tập đoàn phong kiến bấy giờ: có ai vừa vui chơi hưởng lạc vừa trọn nghĩa vua tôi như ông. Ông trở thành một cá nhân riêng lẻ tách hẳn với triều đình phong kiến. Đó là một tư thếsống rất đáng ca ngợi vừa nghệsĩ, vừa thanh cao của kẻsĩ thời bấy giờ.

Tóm lại, Nguyễn Công Trứ trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởnglà một Nguyễn Công Trứ vừa “ngất ngưởng” vừa “vẹn nghĩa”. Có lẽ đây cũng là điều mà những người muốn theo đuổi: khi đã cống hiến hết mình thì nên cho phép cho mình hưởng lạc. Qua đây chúng ta rút ra được bài học là mỗi người hãy rút ra triết lý sống tốt đẹp, tích cực cho bản thân và hãy sống và đeo đuổi triết lý đó đểsống đẹp và sống có ích hơn.

Hoàng Thu Trang

Nguồn: Vietvanhoctro.com

Đán

Câu hỏi trong lớp Xem thêm