những biến đổi trong xã hội việt nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất, đánh gá thái độ trính trị và khả năng cách mạng của các giai cấp công nhân và nông dân.
2 câu trả lời
-giai cấp nông dân :
-chiếm hơn 90% số dân , bị đế quốc , phong kiến áp bức bóc lột nặng nề , bị bần cùng hóa và phá sản trên quy mô lớn.
-đây là lực lượng hăng hái và đông đảo nhất của cách mạng.
- giai cấp công nhân:
- phát triển nhanh về số lượng .
-là lực lượng tiên phong và lãnh đạo cách mạng.
chuyển biến về kinh tế xã hội ở Việt Nam từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến cuối những năm 20 của thế kỉ XX.1. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp:
* Nguyên nhân thúc đẩy cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai:
- Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914 - 1918 ), đế quốc Pháp tuy là một nước thắng trận nhưng bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế của Pháp bị kiệt quệ. Để hàn gắn và khôi phục kinh tế sau chiến tranh, nhà cầm quyền Pháp vừa tìm cách kết thúc đẩy sản xuất trong nước, vừa tăng cường đầu tư khai thác thuộc địa, trước hết là các nước ở Đông Dương và châu Phi.
- Chương trình khai thác lần thứ hai thực hiện ở Đông Dương do An-be Xa-rô, Toàn quyền Đông Dương vạch ra.
* Những chính sách khai thác về công - nông - thương nghiệp, giao thông vận tải và kinh tế:
Thực dân Pháp đã đầu tư mạnh với tốc độ nhanh, quy mô lớn vào các nghành kinh tế Việt Nam. Chỉ trong vòng 6 năm ( 1924 - 1929 ), số vốn đầu tư vào Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam lên đến 4 tỉ phrăng ( tăng 6 lần so với trước chiến tranh ).
- Nông nghiệp:
+ Năm 1924, vốn đầu tư vào nông nghiệp là 50 triệu phrăng, đến năm 1927 đã lên đến 400 triệu phrăng, gấp 10 lần trước chiến tranh.
+ Diện tích các đồn điền cao su, trồng lúa, cà phê,... được mở rộng. Diện tích trồng cao su từ 1500 ha năm 1918 lên đến 78.620 ha năm 1930. Nhiều công ti trồng cây cao su ra đời: Công ti đất đỏ, Công ti Mi-sơ-lanh, Công ti trồng cây nhiệt đới.
- Công nghiệp:
Tư bản Pháp chú trọng đầu tư vào khai thác mỏ, trước hết là mỏ than:
+ Nhiều công ti khai thác than mới được thành lập như Công ti than Hạ Long - Đồng Đăng, Công ti than và kim khí Đông Dương, Công ti than Tuyên Quang, Công ti than Đông Triều,...
+ Ngoài than, các cơ sở khai thác mỏ thiếc, kẽm, sắt đều được bổ sung thêm vốn, tăng thêm công nhân và đẩy mạnh tiến độ khai thác. Một số cơ sở chế biến quặng kẽm, thiếc, các nhà máy tơ sợi Hải Phòng, Nam Định, nhà máy rượu Hà Nội, Nam Định, nhà máy diêm Hà Nội, Bến Thủy, nhà máy đường Tuy Hòa, gạo Chợ lớn,... đã được nâng cấp và mở rộng quy mô.
- Thương nghiệp:
+ Ngoại thương có sự tăng tiến hơn trước: trước chiến tranh, hàng hóa Pháp nhập vào Đông Dương mới chiếm 37 %, đến những năm 1929 - 1930 đã lên đến 63 % tổng số hàng nhập. Quan hệ giao lưu buôn bán nội địa cũng được đẩy mạnh.
+ Đánh thuế rất nặng các hàng hóa nhập từ nước ngoài mà chủ yếu là của Trung Quốc và Nhật Bản nhằm nắm chặt thị trường Việt Nam ( và Đông Dương ) cho tư bản độc quyền Pháp.
- Giao thông vận tải:
+ Mục đích: phát triển giao thông vận tải nhằm phục vụ công cuộc khai thác và vận chuyển nguyên vật liệu, lưu thông hàng hóa trong nước và nước ngoài.
+ Cụ thể:
• Đường sắt xuyên Đông Dương được nối thêm đoạn Đồng Đăng - Na Sầm ( 1922 ), Vinh - Đông Hà ( 1927 ). Đến năm 1932, Pháp đã xây dựng 2389 km đường sắt trên lãnh thổ Việt Nam.
• Hệ thống giao thông đường thủy tiếp tục được khai thác. Ngoài các cảng đã có từ trước như cảng Hải Phòng, Sài Gòn, thực dân Pháp xúc tiến xây dựng các cảng Hòn Gai, Bến Thủy.
• Các đô thị được mở rộng và dân cư đông hơn.
- Kinh tế:
+ Ngân hàng Đông Dương nắm trọn quyền chỉ huy kinh tế Đông Dương: phát hành giấy bạc và cho vay lãi. Ngân hàng Đông Dương còn có cổ phần trong hầu hết các công ti và xí nghiệp lớn.
+ Thi hành biện pháp tăng thuế nặng nên ngân sách Đông Dương thu được năm 1930 tăng gấp 3 lần so với năm 1912.
=> Chính sách khai thác thuộc địa của chúng nhìn chung về căn bản vẫn không thay đổi: hết sức hạn chế sự phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng như các nghành luyện kim, cơ khí, hóa chất,... nhằm cột chặt Đông Dương vào nền công nghiệp của nước Pháp và biến Đông Dương thành thị trường độc chiếm của tư bản Pháp.
* Những chính sách về chính trị, văn hóa, giáo dục của thực dân Pháp:
Sau chiến tranh, chính sách thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương vẫn không thay đổi mà còn tăng cường để phục vụ sự thống trị của chúng và đẩy mạnh khai thác thuộc địa. Đó chính là chính sách chuyên chế, mọi quyền hành đều nằm trong tay thực dân Pháp và bọn tay sai trung thành của chúng. Bộ máy đàn áp, cảnh sát, mật thám, nhà tù vẫn tiếp tục được củng cố và hoạt động ráo riết. Một số tổ chức chính trị, an ninh, kinh tế được thành lập:
- Thực dân Pháp thi hành một vài cải cách chính trị - hành chính để đối phó với những biến động đang diễn ra ở Đông Dương:
+ Mở rộng các công sở cho người Việt.
+ Tăng thêm số người Việt trong các Phòng Thương mại và Canh nông ở các thành phố lớn.
+ Lập Viện Dân biểu Trung Kì ( 2 - 1926 ), Viện Dân biểu Bắc Kì ( 4 - 1926 ).
+ ở làng, xã, chúng thông qua bộ phận cầm đầu ở hương thôn để nắm sâu xuống các địa phương.
- Văn hóa, giáo dục cũng có sự thay đổi:
+ Đến tháng 12 - 1917, Toàn quyền Đông Dương lập Hội đồng Tư vấn học chính Đông Dương với chức năng đề ra những quy chế cho nghành giáo dục.
+ Hệ thống giáo dục được mở rộng gồm các cấp tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học. Mô hình giáo dục có tính hiện đại đang hình thành ở Đông Dương.
+ Cơ sở xuất bản, in ấn xuất hiện ngày càng nhiều với hàng chục tờ báo, tạp chí chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Nhà cầm quyền Pháp sử dụng báo chí, văn hóa,... để phục vụ công cuộc khai thác và thống trị của chúng; ưu tiên khuyến khích xuất bản các sách báo theo chủ trương Pháp - Việt đề huề.
+ Các phong trào tư tưởng, khoa học - kĩ thuật, văn hóa, nghệ thuật phương Tây có điều kiện tràn vào Việt Nam.
+ Các nghành văn học, nghệ thuật ( hội họa, điêu khắc, kiến trúc,... ) đã có những biến đổi mới về nội dung, văn hóa mới tiến bộ và ngoại lai nô dịch cùng tồn tại, đan xen, đấu tranh với nhau.
2. Tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần hai đến kinh tế và giai cấp xã hội ở VN:
* Những chuyển biến về kinh tế:
- Qua cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền kinh tế của tư bản thực dân Pháp tiếp tục được mở rộng song vẫn duy trì và bao trùm lên là nền kinh tế phong kiến Việt Nam cũ. Nền kinh tế Việt Nam có sự chuyển biến trong phạm vi hạn hẹp của nền kinh tế tư bản thực dân.
- Trong quá trình đầu tư vốn và mở rộng khai thác thuộc địa, thực dân Pháp cũng có đầu tư các nhân tố kĩ thuật và nhân lực sản xuất, song rất hạn chế.
- Cơ cấu kinh tế Việt Nam vẫn mất cân đối. Sự chuyển biến ít nhiều về kinh tế chỉ có tính chất cục bộ ở một số vùng, còn phổ biến vẫn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn.
=> Kinh tế Đông Dương vẫn bị cột chặt vào kinh tế Pháp và Đông Dương vẫn là thị trường độc chiếm của tư bản Pháp.
* Những chuyển biến về giai cấp:
Do tác động của chính sách khai thác thuộc địa trên quy mô lớn và chính sách thống trị của thực dân Pháp, cơ cấu giai cấp xã hội ở Việt Nam bị phân hóa sâu sắc hơn. Cùng với sự phân hóa của lực lượng xã hội cũ, một số giai cấp mới ra đời và ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp có địa vị và quyền lợi khác nhau nên cũng có thái độ, chính trị và khả năng khác nhau trước sự nghiệp giải phóng dân tộc:
- Giai cấp địa chủ phong kiến:
+ Vốn là giai cấp thống trị cũ đã đàu hàng, được đé quốc nuôi dưỡng để làm tay sai, chúng ôm chân đế quốc, phản bội dân tộc là chỗ dựa của chủ nghĩa đế quốc, câu kết với đế quốc để cướp đoạt ruộng đất và đàn áp nông dân nên sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, địa chủ phong kiến được tăng cường cả về thế và lực.
+ Bị phân hóa thành ba bộ phận rõ rệt: tiểu địa chủ, trung địa chủ và đại địa chủ ( một số đồng thời là tư sản ). Sinh ra và lớn lên trong một dân tộc có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm nên một bộ phận không ít tiểu và trung địa chủ có tinh thần dân tộc chống thực dân Pháp và bọn tay sai phản động, khi có điều kiện có tham gia vào phong trào dân tộc.
- Giai cấp nông dân:
+ Chiếm 90 % dân số, là nạn nhân chủ yếu của công cuộc khai thác thuộc địa. Họ bị thống trị, bị tước đoạt ruộng đất, bần cùng hóa, phá sản, không có lối thoát, chỉ có một số ít được tiếp nhận vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền.
+ Mâu thuẫn giữa nông dân Việt Nam - lực lượng dân cư đông đảo - với đế quốc Pháp và tay sai hết sức gay gắt. Đó là cơ sở của sự bùng nổ các cuộc đấu tranh của nông dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
+ Họ có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, chống áp bức bóc lột nhưng không có tổ chức vững mạnh, ít học thức, sống tản mạn nên không thể lãnh đạo được cách mạng. Nếu có một lực lượng tiên tiến dẫn dắt thì họ sẽ trở thành động lực chính của cách mạng.
- Giai cấp tiểu tư sản thành thị:
+ Cũng tăng lên về số lượng sau chiến tranh. Họ bao gồm những người buôn bán nhỏ, chủ xưởng nhỏ, học sinh, sinh viên, công chức, trí thức, dân nghèo thành thị,...
+ Do bị khinh miệt, bạc đãi, đời sống bấp bênh, họ rất hăng hái cách mạng nhưng dễ hoang mang dao động nên không thể lãnh đạo được cách mạng. Tuy vậy, nhờ được tiếp xúc với các tư tưởng mới nên họ có tinh thần dân tộc, chống thực dân Pháp và tay sai. Đặc biệt, bộ phận học sinh, sinh viên, trí thức rất nhạy cảm với thời cuộc và tha thiết canh tân đất nước nên rất hăng hái tham gia vào các cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc.
- Giai cấp tư sản:
+ Ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phần đông là những tiểu chủ đứng trung gian thầu khoán, số lượng ít lại bị thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm nên thế lực kinh tế nhỏ yếu ( tổng số vốn kinh doanh chỉ bằng 5 % số vốn của tư bản nước ngoài đầu tư vào nước ta lúc bấy giờ ).
+ Bị phân hóa làm hai bộ phận:
• Tư sản mại bản có quyền lợi gắn liền với đế quốc nên câu kết chặt chẽ với chính quyền thực dân và là lực lượng cần phải đánh đổ.
• Tư sản dân tộc có lòng yêu nước, muốn phát triển chủ nghĩa tư bản Việt Nam, có khuynh hướng kinh doanh độc lập, có tinh thần chống đế quốc và phong kiến, tán thành độc lập dân tộc nhưng vì kinh tế quá nhỏ yếu, có thái độ không kiên định, dễ thỏa hiệp nên không lãnh đạo được cách mạng, chỉ là một lực lượng nhỏ trong cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta.
=> Nhìn chung, tư sản dân tộc Việt Nam là một giai cấp có khuynh hướng dân tộc và dân chủ. Họ là một lực lượng đóng vai trò đáng kể, một thành phần trong mặt trận đoàn kết dân tộc.
- Giai cấp công nhân:
+ Ra đời trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
+ Họ có số lượng hết sức đông đảo: trước chiến tranh thế giới thứ nhất, họ có khoảng 10 vạn người. Đến năm 1929, trong các doanh nghiệp của người Pháp ở Đông Dương, chủ yếu là ở Việt Nam, giai cấp công nhân có trên 2 vạn người.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng lớp áp bức bóc lột của đế quốc thực dân, phong kiến và tư bản xứ, chủ yếu là bọn đế quốc thực dân. Họ có quan hệ gắn bó với giai cấp nông nhân, có truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc, sớm chịu ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản trên thế giới ( cách mạng tháng Mười Nga ). Chính vì vậy, chỉ có họ mới có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam và nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị độc lập, làm cơ sở vững chức cho phong trào dân tộc theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa.
* Kết luận:
- Từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến cuối những năm 20 của thế kỉ XX, trên đất nước Việt Nam đã diễn ra những biến đổi quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và giai cấp. Mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam ngày càng sâu sắc, chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Cuộc đấu tranh của nhân ta chống để quốc và tay sai diễn ra ngày càng gay gắt.
- Sự phân hóa giai cấp, đặc biệt là sự ra đời và phát triển của các lực lượng xã hội mới, đã tạo tiền đề cho việc tiếp thu các trào lưu tư tưởng mới, làm cơ sở để hình thành và phát triển các khuynh hướng cách mạng mới ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.