Mọi người ơi cho mình hỏi cách soạn bài Những câu hát châm biếm tr 51 sgk ngữ văn 7 với

2 câu trả lời

Câu 1:

*Giới thiệu về chú tôi là “người hay” nghĩa là giỏi, ham, thích, nghiện nhiều thứ: rượu, chè, ngủ trưa. Chú còn là người rất “giàu mơ ước” mà toàn mơ để không phải đi làm, để ngủ cho đã mắt.

* Hai dòng đầu là câu hỏi của cái cò khi đang lặn lội nơi bờ ao gặp cô gái mặc yếm đào, liền cất ướm hỏi cho ông chú của nó.

* Bài này châm biếm những kẻ nghiện rượu chè , ngủ nghê tùy thích, lười làm việc.

Câu 2:

* Nhại lời nói của thầy bói với người đi xem bói. Bài ca dao lật tẩy bản chất của bọn nó dựa thực chất là chỉ đánh vào tâm lý của người khác để kiếm tiền.

* Lời nói của thầy bói kiểu nước đôi: không giàu thì nghèo, cha là đàn ông, mẹ đàn bà, đẻ con trai hoặc gái => Điều này ai cũng biết không cần phải nhờ vào thầy bói.

* Những bài ca dao khác có nội dung tương tự

- Tử vi xem bói cho người

Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.

- Thầy cũng ngồi cạnh giường thờ

Mồm thì lẩm bẩm tay sờ đĩa xôi.

Câu 3:

* Mỗi con vật trong 3 bài tượng trưng cho một loại người:

- Con cò tượng trưng cho người nông dân xấu số.

- Con cà cuống tượng trưng cho những kẻ có quyền binh, có chức có quyền.

- Chim ri, chào mào tượng trưng cho đám lính lệ, tay sai.

- Chim chích tượng trưng cho anh mõ dưới chế độ phong kiến.

⟹ Chọn con vật để nói về người, từng con vật với đặc điểm của nó giúp người đọc thấy được những hình ảnh ẩn dụ sinh động về hạng người mà nó tượng trưng. Từ đó, càng nổi bật được sự châm biếm đối với các loại người đó.

- Cảnh tượng trong bài không phù hợp với với đám tang vì đám tang mà lại có cảnh chia chác, đánh chén linh đình.

- Bài ca phê phán những hủ tục ma chay thời xưa và thời nay ở một số nơi vẫn có. Điều này vừa gây phiền hà, gây tốn kém cho gia đình người thiệt phận, cho cả hàng xóm, họ mạc…

Câu 4:

* Trong bài 4, cậu cai được miêu tả:

- Trang phục: nón dấu lông gà, ngón tay đeo nhẫn

⟹ Cách ăn mặc thể hiện sự giàu sang, kệch cỡm của cậu chỉ huy hạng bét.

- “Áo ngắn đi mượn – quần dài đi thuê” cho một chuyến đi làm việc hiếm hoi

⟹ Thể hiện được sự không có đủ quần áo phải đi mượn, đi thuê

⟹ Mỉa mai, pha chút thương hại cái thân phận thấp bé, tép riu của cậu cai nhưng lại thích ra oai, ta là người có quyền lực.

* Nhận xét về nghệ thuật châm biếm: tác giả đã rất khéo lựa chọn cách xưng hô “cậu cai” thể hiện tính chất nịnh bợ vừa có tính châm biếm. Hơn nữa, bằng việc miêu tả cậu cai, tác giả đã cho chúng ta thấy cái sự bắng nhắng của nhân vật: quan không ra quan mà người dân không ra người dân. Từ đây, bằng biện pháp phóng đại, cậu cai trở thành trò cười cho thiên hạ.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Bài 1 “giới thiệu” chú tôi là người hay (nghĩa là giỏi, nhưng cũng có nghĩa là thích, ham, nghiện) nhiều thứ: nghiện rượu, nghiện chè, lại nghiện cả… ngủ trưa! Không những thế, chú còn là người rất “giàu ước mơ” – mà toàn mơ để … không phải đi làm, để ngủ cho đã mắt! Bài ca dao này châm biếm hạng người sa đà nghiện ngập và lười biếng trong xã hội.

2. Bài 2 nhại lời nói của thầy bói với người đi xem bói, bài ca dao lật tẩy bản chất của bọn “nói dựa” – thực chất là lợi dụng tâm lí tò mò của người khác để lừa bịp, kiếm tiền. Sự khẳng định của thầy bói ngụy biện và rất vô nghĩa (về sự giàu nghèo, giới tính của mẹ cha, con cái) vì chỉ khẳng định những điều có tính tất yếu, ai cũng biết. Mặc dù tác giả dân gian không bình luận, nhưng bài ca vẫn toát lên ý nghĩa châm biếm sâu sắc về hiện tượng mê tín dị đoan trong xã hội.

3. Mỗi con vật trong bài 3 tượng trưng cho một loại người: con cò tượng trưng cho người nông dân, cà cuống tượng trưng cho những kẻ có quyền bính, chim ri và chào mào tượng trưng cho đám lính lệ, chim chích tượng trưng cho anh mõ dưới chế độ phong kiến. Bài ca có tính chất ngụ ngôn rõ rệt, tác giả dân gian đã mượn loài vật để phê phán hủ tục ma chay.

4. Hai câu đầu của bài ca có kết cấu đặc biệt: Cậu cai nón dấu lông gà. Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Hai câu là hai định nghĩa, đồng thời là hai “dấu hiệu” nhận biết một con người: thứ nhất, cậu cai = nón dấu lông gà (dấu hiệu quyền lực) ; thứ hai: ngón tay đeo nhẫn = gọi là cậu cai (dấu hiệu giàu sang). Hai dấu hiệu này không có nghĩa thông báo về tâm hồn, tính cách hay phẩm chất của đối tượng. Nếu bỏ hai tiếng “cậu cai” đi, trong hình dung chỉ còn chiếc “nón dấu lông gà” (quyền lực) và “ngón tay đeo nhẫn” (khoe của) có vẻ rất trai lơ!

Hai câu tiếp theo đối lập về số lượng có tính chất gây cười. Pha một chút phóng đại, chân dung cậu cai được đưa ra châm chọc, mỉa mai, thể hiện thái độ khinh ghét và thương hại của nhân dân.

Về nghệ thuật, khi xây dựng nhân vật cai lệ, tác giả dân gian đã khéo léo chọn từ xưng hô là: cậu cai (một từ vừa có tính chất nịnh bợ, vừa có tính chất châm biếm). Hơn nữa, bằng việc biếm hoạ chân dung cậu cai, tác giả dân gian đã ngầm ý nói lên sự nhố nhăng, bắng nhắng của nhân vật người thường không ra người thường, quyền lực không ra quyền lực này. Việc sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại cũng có tác dụng làm cho nhân vật cậu cai càng trở nên nực cười và thảm hại hơn.

III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG

1. Cách đọc

Đây cũng là ca dao trữ tình nhưng tình cảm, thái độ trong đó không phải là những tình cảm thẳm sâu, day dứt trong tâm hồn (như những bài ca dao về tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa,…). Giọng điệu ở đây là giọng châm biếm, giễu cợt,… nên khi đọc cần cao giọng, nhấn mạnh vào các điệp từ, điệp ngữ (có chủ ý) để làm nổi bật giọng điệu châm biếm, giễu cợt của những câu ca dao này.

2. Để nhận xét về sự giống nhau của bốn bài ca dao, em đồng ý với ý kiến nào dưới đây:

a) Cả bốn bài đều có hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng.

b) Tất cả đều sử dụng biện pháp phóng đại.

c) Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm.

d) Nghệ thuật tả thực có trong cả bốn bài.

Gợi ý: Câu trả lời xác đáng nhất là ý c.

3.* Những câu hát châm biếm nói trên có điểm gì giống truyện cười dân gian?

Gợi ý:

- Đều hướng đến châm biếm những hạng người đáng chê cười về tính cách, bản chất.

- Đều sử dụng một số hình thức gây cười.

- Đều tạo được những tiếng cười sảng khoái cho độc giả.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm

các bạn giúp mình với hứa vote 5* Cuối xuân, khi cái rét muộn còn dùng dằng như chưa muốn bước chân đi, cũng là lúc mùa xuân bẽn lẽn chuẩn bị chia tay trong khi mùa hè sắp sửa tràn về. Cuối xuân, chỉ còn một vài vệt rét mỏng manh vương vãi, rải rác trên các bờ ao, góc vườn, ngõ xóm,... Cuối xuân, cũng là mùa hoa của hoa sầu đồng phơn phớt tím bung nở như dấu hiệu để gọi màu tìm bằng lăng, màu đỏ hoa phương đua sắc rực rỡ giữa trời hè. Tất cả đều lặng lẽ nhưng rạo rực. Trong khi ấy, một tiếng ve nhẹ nhàng, trong vắt, đứt quãng vang lên một cách rụt rè. Tiếng ve đơn độc như đang thứ giọng gọi mùa hè, mùa thi của học trò sắp đến rồi. Hình như tuổi thơ, tuổi học trò mới chú ý lắng nghe tiếng ve kêu, nên tiếng ve đơn độc kia đã khẽ khàng đẩy đưa tâm hồn trẻ thơ vào bức tranh chớm hạ. (Trích Tiếng ve gọi mùa - Ngô Văn Cừ) Câu 1 (1,0 điểm): Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn văn? Câu 2 (1,0 điểm): Nêu nội dung chính của đoạn văn? Câu 3 (2,0 điểm): Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn sau: Cuối xuân, khi cái rét muộn còn dùng dằng như chưa muốn bước chân đi, cũng là lúc mùa xuân bẽn lẽn chuẩn bị chia tay trong khi mùa hè sắp sửa tràn về. Câu 4 (2,0 điểm): Vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên được gợi ra từ đoạn văn trên.

2 lượt xem
2 đáp án
8 giờ trước