Em hãy giới thiệu con đường cứu nước của Người từ 1911-1941.

2 câu trả lời

Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp liên tiếp nổ ra. Từ các cuộc khởi nghĩa theo phong trào Cần Vương như: Khởi nghĩa Ba Đình của Đinh Công Tráng và Phạm Bành ở Nga Sơn, Thanh Hóa; khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên; khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng ở Hà Tĩnh, cho đến cuộc khởi nghĩa nông dân do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo ở Yên Thế, Bắc Giang. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa này cuối cùng đều thất bại. Những thi sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã xuất dương tìm đường cứu nước. Mặc dù vậy họ chưa tìm ra được con đường giải phóng dân tộc. Trước thực tế ấy, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành, khi đó mới 21 tuổi đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Bởi trong anh đang nung nấu một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi; độc lập cho Tổ quốc tôi. Đấy là tất cả điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.

Sinh ra ở Làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, cậu bé Nguyễn Sinh Cung là con trai Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan; miền quê có truyền thống đấu tranh kiên cường chống áp bức của thực dân; sự giáo dục của gia đình và lòng yêu nước sâu sắc đã ảnh hưởng đến cậu bé Nguyễn Sinh Cung từ thời niên thiếu.

Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo cha vào Huế, thời gian sống và học ở mảnh đất Kinh Kỳ, cậu bé Cung đã chứng kiến sự bất lực của các vị vua quan triều Nguyễn; thấy được tội ác của thực dân Pháp; học được văn minh của văn hóa phương Tây và tiếp xúc với đồng bào yêu nước.

Năm 1908, Nguyễn Tất Thành đã tham gia phong trào chống thuế của nông dân Thừa Thiên Huế tại Tòa Khâm Xứ Trung kỳ. Thời gian sống ở Huế là khoảng thời gian hình thành thế giới quan về thời cuộc, về xã hội đương thời và có ảnh hưởng đến việc hình thành tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành.

đúng hợp lí

Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Sau gần mười năm vừa lao động kiếm sống, vừa học hỏi, vừa tìm hiểu thực tiễn ở nhiều nước, Người đã có những chuyển biến trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt phi thường.

Từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, phong trào kháng chiến chống Pháp bùng lên và lan rộng trong cả nước. Các cuộc nổi dậy đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và ý chí căm thù giặc Pháp sôi sục. Song, trước sau đều bị thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng. Nhiều phong trào cứu nước do các sĩ phu và văn thân theo ý thức hệ phong kiến. Các phong trào Duy Tân, Đông Du dựa trên lý luận dân chủ tư sản đều bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt. Các tầng lớp nhân dân trong xã hội bị phân hóa sâu sắc, điêu đứng trong cảnh nước mất, nhà tan, bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị đầu độc về văn hóa, bị tha hóa về con người, bị đọa đày trong đói rách về bệnh tật. Giai cấp cần lao lâm vào số phận nô lệ bi thảm, quyền sống của con người bị chà đạp thảm hại. Xã hội Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành thuộc địa nửa phong kiến. Thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khai thác tài nguyên và bóc lột dã man của cải và sức lao động của nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc. Trước tình cảnh ấy, tiếp nối truyền thống chống ngoại xâm bất khuất của dân tộc, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành, khi đó mới 21 tuổi, đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước với quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.(1)

Từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt Người đã dừng chân khảo sát ở 3 nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Người tranh thủ mọi điều kiện để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa. Trên cơ sở đó, Người đã rút ra kết luận có tính chất căn bản đầu tiên: “Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề”, và “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”(2). Những nhận biết căn bản đó càng thôi thúc Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc quyết tâm tìm ra phương hướng giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. Hành trang duy nhất Người mang theo khi lên tàu thủy ra nước ngoài là chủ nghĩa yêu nước - sản phẩm tinh thần cao đẹp của lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Tư tưởng yêu nước của Người vừa kế thừa tinh hoa của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, vừa bao hàm một tinh thần đổi mới phù hợp với yêu cầu giải phóng dân tộc và xu thế của thời đại. 

 

Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

Từ sự đồng cảm với các dân tộc cùng cảnh ngộ, Người đã đến với chủ nghĩa quốc tế. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ nước Anh trở lại nước Pháp. Được Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường giúp đỡ, Người hăng hái hoạt động chính trị trong Việt kiều và những người lao động Pháp.

Từ những hoạt động thực tiễn trên và nhất là tháng 7 năm 1920 Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lê-nin đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo). Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc… Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn Ái Quốc. Người đọc đi đọc lại nhiều lần và qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người nhận thấy trong đó con đường giải phóng đất nước khỏi ách thực dân. Về sau, Người nhớ lại: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.(3)

Như vậy, từ khi rời bến cảng Sài Gòn, lênh đênh trên các đại dương, cập bến bốn châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa trải nghiệm, đến giữa tháng 7-1920, tại Pa-ri (Pháp), tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc có sự chuyển biến lớn lao, từ sự đồng cảm với các dân tộc cùng cảnh ngộ, đến với chủ nghĩa quốc tế. Người đã nhìn thấy khả năng thực hiện ba mục tiêu lớn: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Từ thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc theo sát những sự kiện chính trị thế giới đang diễn ra dồn dập, tác động mạnh đến chính trường nước Pháp, đặc biệt là Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (QTCS) và Đại hội I các dân tộc phương Đông. Người tham dự cuộc mít tinh lớn của hàng vạn công nhân tại rạp xiếc ở Pa-ri. Tiếp sau đó, tháng 9-1920, Người theo sát tiến trình Đại hội I các dân tộc phương Đông, nhằm đưa đường lối, chính sách của Đại hội II QTCS vào cuộc sống, mà trước hết là tư tưởng “đoàn kết phương Tây vô sản và phương Đông bị áp bức”. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong khẩu hiệu chiến đấu đưa ra trong Đại hội: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. 

Những sự kiện chính trị trên góp phần củng cố niềm tin vững chắc của Nguyễn Ái Quốc vào V.I. Lê-nin, vào Quốc tế cộng sản và nước Nga Xô-viết, củng cố lập trường và bản lĩnh chính trị của Người. Nguyễn Ái Quốc vững tin đến Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua và bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Như vậy, có thể khẳng định, đến đây sự chuyển biến tư tưởng từ đồng cảm với các dân tộc cùng cảnh ngộ đến chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa cộng sản của Nguyễn Ái Quốc đã hoàn tất.

Luận cương của V.I.Lê-nin đã mở ra con đường đưa Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin và chính Luận cương của Lê-nin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.

Việc tìm ra con đường cứu nước và những chuyển biến trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa lịch sử to lớn, đó là:

Một là, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, với học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, Nguyễn Ái Quốc đã đặt nền móng cho lý luận Cách mạng Việt Nam trong thời đại mới; chấm dứt khủng hoảng đường lối cứu nước triền miên từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX; tìm thấy đường lối phát triển đúng đắn cho dân tộc, phù hợp với trào lưu tiến hóa chung của nhân loại và xu thế của thời đại.

Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường cho phong trào yêu nước, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, làm cho chủ nghĩa yêu nước vươn lên tầm thời đại, trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, mà sau này biểu tượng sáng chói trong hai cuộc kháng chiến lừng lẫy của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong công cuộc đổi mới đất nước gần 40 năm qua theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ba là, với việc tìm ra con đường cứu nước, phát triển của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp to lớn, thiết thực chuẩn bị cho việc mở ra một giai đoạn phát triển mới của phong trào cách mạng vô sản nói chung, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới và Châu Á nói riêng.

Với lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, ý chí quyết tâm giành độc lập dân tộc, nhận thức đầy đủ hiện thực xã hội, vận mệnh lịch sử đặt ra đối với dân tộc Việt Nam và những nhân tố mới của thời đại, Nguyễn Tất Thành đã quyết định xuống tàu, bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân. Người vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để tìm thấy con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, hợp quy luật tất yếu của lịch sử giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản. Chủ tịch HỒ CHÍ MINH - Lãnh tụ trọn đời hy sinh cho đất nước và hạnh phúc nhân dân. Một nhân cách lớn, một tấm gương về sự ham học hỏi, lòng nhân hậu, bác ái, là biểu tượng cao đẹp đầy tự hào của dân tộc Việt Nam trước bạn bè quốc tế năm châu.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm