2 câu trả lời
Những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi ấu thơ có sức tỏa sáng và nâng đỡ tâm hồn con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Hơn ai hết, tôi đã thấm thía sâu sắc điều ấy khi rời xa bà để ra nước ngoài học tập. Nơi phương trời xa xôi, mỗi khi nhớ về quê hương, tôi đều nhớ về bà và bếp lửa. Cái bếp lửa bình dị, thân thương của bà đã soi sáng kí ức tuổi thơ tôi và làm sống dậy bao kỉ niệm đẹp đẽ bên bà.
Ở nước Nga nơi tôi đang theo học ngành luật, người ta nấu bằng bếp ga, bếp điện, bếp từ nhưng không hiểu sao tôi vẫn nhớ hoài cái bếp lửa của bà, cái bếp lửa đun bằng củi, bằng rơm, bằng rạ quá đỗi gần gũi, quen thuộc với tuổi thơ tôi. Tôi vẫn nhớ mỗi buổi sáng sớm, bà đều thức dậy cặm cụi nhóm bếp, ngọn lửa chờn vờn trong làn sương sớm lúc mờ lúc tỏ, lúc to lúc nhỏ. Cái ngọn lửa ấp iu nồng đượm ấy đã cháy suốt tuổi thơ tôi và chứng kiến biết bao kỉ niệm đẹp đẽ của tôi bên bà.
Lên 4 tuổi tôi đã quen mùi khói bếp của bà. Tôi vẫn còn nhớ đó là năm 1945, năm xảy ra nạn đói khủng khiếp. Cả làng quê ảm đạm, tiêu điều xác xơ trong cái đói mòn đói mỏi, đói quay đói quắt. Bố đi đánh xe đến khô rạc ngựa gầy nhưng cũng chỉ đủ cho gia đình bữa rau, bữa cháo. Có một điều kì diệu là dù đói khát đến đâu thì cái bếp của bà bao giờ cũng vẫn đỏ lửa. Hàng ngày, bà đi nhặt nhạnh lá khô, cành cây rồi cần mẫn nhóm lửa . Tôi đã chứng kiến biết bao lần bà chật vật cho lửa bén vào củi ướt, củi chưa khô, khói hun nhèm cả mắt tôi, mắt bà, xộc thẳng vào mũi cay xè. Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn thấy sống mũi còn cay.
Rồi kháng chiến bùng nổ, bố mẹ lên chiến khu công tác, nhà chỉ có 2 bà cháu với nhau. Suốt tám năm ròng tôi cùng bà nhóm lửa. Tôi đã lớn lên trong sự đùm bọc, yêu thương của bà. Bên bếp lửa hồng bà chăm sóc cho tôi từng miếng ăn, giấc ngủ. Bà cũng là người thầy đầu tiên dạy tôi từ cách ăn, cách nói đến những bài học làm người. Tôi không sao quên được những buổi tối mùa hè, tiếng chim tu hú từ cánh đồng xa vọng lại thật thiết tha, khắc khoải. Khi ấy tôi đã thương biết bao nhiêu con chim tu hú cô đơn và thấy mình thật hạnh phúc vì luôn có bà bên cạnh. Trong tiếng chim tu hú, bà đã kể về những ngày tháng cơ cực của bà ở Huế. Lúc ấy tôi đã rất thương bầ và tự nhủ sau này lớn lên nhất định sẽ bù đắp cho những vất vả lam lũ của đời bà.
Tôi làm sao quên được năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi. Ngọn lửa bốc cao ngùn ngụt đã thiêu rụi cả làng tôi. Tất cả đều tan hoang trong khói lửa tàn ác của kẻ thù. Khi giặc rút đi, bà cháu tôi và mọi người mới lầm lụi quay trở về nhà. Nhưng nhà cửa chỉ còn là 1 đống tro tàn. Hàng xóm thương hai bà cháu đã giúp dựng tạm túp lều tranh. Khi ấy, tôi đã bảo với bà:
- Bà ơi, cháu viết thư gọi bố về dựng lại nhà cho hai bà cháu nhé.
Bà ôm tôi vào lòng, xoa đầu tôi và dặn:
- Bố mẹ còn phải lo việc kháng chiến. Cháu viết thư cho bố mẹ chớ kể này kể nọ, cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên để bố mẹ an tâm công tác.
Giờ đây, khi nhớ về những lời dặn dò ấy của bà, trong lòng tôi đã trào dâng niềm tự hào và cảm phục bà. Tôi đã nhận ra bà không chỉ giàu đức hi sinh, thương con, thương cháu mà còn giàu lòng yêu nước.
Rồi mỗi sớm, mỗi chiều, bàn tay bà lại chăm chút nhóm lên bếp lửa để luộc khoai, luộc sắn, để nấu nồi cơm gạo mới sẻ chung vui, để giúp tôi sưởi ấm qua biết bao mùa đông giá lạnh. Cái bếp lửa thiêng liêng, kì diệu của bà đã nhóm dậy trong lòng tôi niềm vui san sẻ, tình làng nghĩa xóm và cả bao ước mơ đẹp đẽ của tuổi ấu thơ. Đến bây giờ tôi đã hiểu tại sao dù cuộc sống có đầy biến động mà cái bếp của bà vẫn luôn đỏ lửa. Đó chính là nhờ ngọn lửa của sức sống, niềm tin và tình yêu thương luôn rực cháy trong trái tim bà. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước tôi trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Bây giờ tôi đã rời xa bà đến một chân trời mới. Cuộc sống đã rộng mở trước mắt tôi với biết bao niềm vui. Tôi đã biết đến khói trăm tàu, lửa trăm nhà và niềm vui trăm ngả nhưng trong lòng tôi ngọn lửa trong cái bếp của bà vẫn là kì diệu và thiêng liêng nhất. Ngọn lửa mà bà trao cho tôi đã trở thành hành trang quý giá giúp tôi tự tin vững bước trong cuộc đời.
“Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương
Da dẻ dù khô đi tấm lòng không hẹp lại
Giàu kiên nhẫn bà còn hi vọng mãi
Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm”
Đó là những vần thơ mà tôi muốn tặng cho người bà kính yêu của mình. Tôi đang là sinh viên ngành Luật ở nước Nga. Bây giờ đã là tháng 9, trời bắt đầu trở lạnh làm tôi nhớ những kí ức về bà, bếp lửa mà ngày xưa tôi cùng bà nhóm bếp, cũng là một phần đã tạo nên tuổi thơ của tôi.
Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, lúc đó nhóm lửa cùng bà vô cùng cực khổ và nhọc nhằn. Lên năm bốn tuổi , tôi đã quen với mùi khói. Tôi vẫn nhớ lúc ấy vào năm 1945, nạn đói xảy ra khủng khiếp đối với gia đình tôi cũng như bao gia đình ở Việt Nam. Cái cảnh mọi người làm việc kiếm miếng ăn thấy mà đau lòng. Số người chết vì đói cũng ngày càng tăng. Ba tôi đi đánh xe ngựa cực khổ con ngựa cũng gầy gò mà cái đói vẫn bám riết không tha, người dân cực khổ vô cùng.
Rồi vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra, ba và mẹ tôi tham gia công tác kháng chiến nên tôi ở cùng bà. Tám năm tôi cùng bà nhóm lửa, hẳn là tuổi thơ tôi đã gắn liền với bếp lửa đó. Cái mùi bếp lửa cay cay, khiến mỗi lần tôi nhóm lửa nước mắt, nước mũi đều chảy . Bà đã thay ba mẹ tôi nuôi dạy tôi nên người. Bà dạy tôi làm việc nhà, dạy tôi học, chăm sóc tôi với tình yêu thương vô vàn như một người mẹ .
Mỗi buổi sáng, bà đều làm đồ ăn để tôi dậy ăn. Bà làm việc này tới việc khác không nghỉ ngơi mà cũng không than phiền hay trách móc gì cả. Cuộc đời bà đã đi qua bao nhiêu sóng gió nắng mưa, đã chịu nhiều cực khổ nên tôi không muốn phiền lòng bà nữa. Tôi đã lớn lên trong vòng tay yêu thương và bảo bọc của bà. Đôi lúc những khi rảnh rỗi bà còn thường kể chuyện tôi nghe rồi nhắn nhủ với tôi rằng: “ Con phải ráng học để xây dựng đất nước , nếu không thì đất nước mình chỉ mãi nghèo khổ thôi”.
Có những khi trời mưa làm cho củi ướt, lúc đó nhóm bếp khổ vô cùng. Mỗi khi tu hú kêu trên những cánh đồng, bà thường kể cho tôi nghe những chuyện ở Huế. Bà kể giọng rất truyền cảm , từng chữ từng lời nói của bà đều khác sâu trong lòng tôi. Tiếng tu hú kêu làm tôi và bà đều nhớ ba mẹ tôi ở chiến khu da diết. Càng lớn tôi càng cảm thấy thương bà, càng không muốn xa quê hương để bà khó nhọc.
Năm đó là nạn giặc tàn phá xóm làng, thiêu rụi nhà cửa, tài sản. Hàng xóm và bà cháu tôi đều chịu nhiều khổ cực, mất mát và đau thương. Cái hình ảnh đó đã ám ảnh hết một phần của tuổi thơ tôi. Sau những ngày rời khỏi quê nhà, thì hàng xóm và bà cháu tôi trở về lậm lụi. Tôi đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh nhỏ để sống qua ngày. Tôi thấy bây giờ cuộc sống cực khổ nên nói với bà: “Bà ơi hay là cháu viết thư cho ba mẹ nhé , để ba mẹ trở về để phụ bà”. Nhưng bà không chịu và nói nhỏ nhẹ với tôi rằng: “Ba mẹ ở chiến khu còn rất nhiều việc, nên mày có viết thư chớ kể này kể nọ , cứ bảo là gia đình vẫn bình yên là được rồi.
Tôi hiểu lòng bà nên chỉ vâng lời thôi ,và tôi càng thấy thương bà hơn, một mình bà gánh vác hết mọi công việc còn lo cho con ở chiến khu, tôi cảm thấy bà như một vị anh hùng giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Nên mọi việc gì trong nhà tôi có thể làm được thì tôi liền giúp bà như: cho gà ăn, lấy củi, hái rau ,… dù những công việc đó nhỏ nhưng cũng giúp bà đỡ được phần nào. Những ngày mà bà làm việc nặng, tới tối tay chân bà mỏi thì đôi đấm bóp cho bà, cho bà dễ chịu.
Ngày qua ngày tôi cùng bà nhóm bếp lửa. Một ngọn lửa chứa niềm tin và hình ảnh của bà . Mấy chục năm rồi mà bà vẫn thức khuya dậy sớm trải qua mưa nắng cuộc đời, tảo tần chăm sóc tôi. Công việc của bà giản dị nhưng tôi vẫn biết ơn vô cùng như: bà nấu khoai, bà san sẻ tình làng nghĩa xóm. Bếp lửa đã cùng bà trải qua nắng mưa trong cuộc đời bà. Ôi bếp lửa giản dị nhưng riêng tôi cảm thấy đó là điều kì lạ thiêng liêng cao đẹp.
Bếp lửa còn là tình bà nồng ấm, bếp lửa gắn với những gian khổ, gian lao đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lên, cũng giống như bà nhóm niềm vui niềm yêu thương dành cho tôi và mọi người . Bà không những là người nhóm lửa, mà còn là người truyền lửa truyền niềm tin cho mọi người .
Giờ đây tôi đã trưởng thành sống với những nơi có bếp gas, bếp điện. “Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả “luôn hiện hữu trong tâm trí tôi với câu hỏi: “Mai này bà nhóm lửa lên chưa”. Ôi bếp lửa tình bà sao ấm áp đến như vậy ! Bếp lửa đã nuôi lớn tôi, giúp tôi trưởng thành như ngày hôm nay. Bây giờ tôi chỉ muốn về với bên bà, được bà kể chuyện, được bà chăm sóc yêu thương. Mỗi con người ai cũng đều có cội nguồn để trưởng thành. Vì thế mà tôi sẽ không bao giờ quên được cái hình ảnh người bà và bếp lửa đã nuôi dạy tôi trưởng thành như ngày hôm nay.