Câu 4 khi là thành viên của WTO, theo em nước ta gặp những thách thức và thuận lợi nào
1 câu trả lời
THUẬN LỢI :
Việt Nam được hưởng ưu đãi trong hoạt động thương mại quốc tế: trong quá trình tồn tại GAT/WTO đã thực hiện các vòng đàm phán nhằm tạo điều kiện cho tự do hoá thương mại trên cơ sở quy chế tối hậu giữa các quốc gia thành viên. Với điều kiện tự nhiên ưu đãi và công nhân dồi dào, Việt Nam có cơ hội tận dụng những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh đặc biệtlà các ngành nông nghiệp dệt may, theo hiệp định dệt may của WTO (ACT) đến đầu 2005 các nhà nước thành viên phải hoàn toàn xoá bỏ các hạn chế nghạch đối với hàng dệt may. Nếu vào thời điểm đó Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO thì triển vọng xuất khẩu dệt may là rất lớn.
Tiến hành thương mại không có phân biệt đối xử: nguyên tắc không phân biệt đối xử còn biết đến dưới tên gọi "nguyên tắc đãi ngộ quốc gia". Hiện nay do Việt Nam chưa là thành viên của WTO nên trong buôn bán với các nước là thành viên của WTO, các nước này có thể giành quy chế đối xử gây bất lợi đối với Việt Nam. Cùng với sự phát triển của hoạt động ngoại thương, một số mặt hàng của Việt Nam đã có năng lực cạnh tranh trên một số thị trường như gạo, cà phê, thuỷ sản, dệt may. Khi đó các quốc gia thành viên WTO như Hoa kỳ, EU, Ca na đa… đưa ra lý do phân biệt đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam như các vụ kiện bán phá giá với cá basa ở Hoa kỳ và bán bật lửa ở Châu âu. Trong việc giải quyết các vụ tranh chấp này Việt Nam không được hưởng quy chế tranh chấp như các quốc gia thành viên WTO.
Gia nhập WTO là do động lực cho các cải cách môi trường kinh doanh trong nước. Để trở thành thành viên của WTO, thì các quốc gia nộp đơn xin gia nhập đều phải minh bạch hoá các chính sách kinh tế, đặc biệt là: Chính sách thương mại . Kể từ khi Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành một số biện pháp cải cách như:
- Mở rộng quyền kinh doanh cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nếu như trước năm 1998, chỉ có các doanh nghiệp có giấy phép xuất nhập khẩu mới được tham gia ngoại thương thì bỏ từ ngày 1-9-2001 bất kỳ doanh nghiệp nào có đăng ký kinh doanh thì đều có quyền xuất nhập khẩu. Chính phủ ban hành quyết định 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2001-2005, trong đó bãi bỏ hạn ngạch và quản lý nhập khẩu thông qua đầu mối đối với gạo và phân bón, bãi bỏ giấy phép nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng như xi măng, thép, dầu thực vật…
- Về đầu tư nước ngoài: đây là lĩnh vực đang được hoàn thiện với các cải cách về thủ tục cấp giấy phép đầu tư, giảm yêu cầu về tỉ lệ kết hối ngoại tệ, tăng cường ưu đãi. Ngày 17/5/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 62/2002/QĐ-TTg ban hành dự án danh mục quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005 với muc tiêu thu hút vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm nhằm đưa Việt Nam cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp vàonăm 2002.
- Về quyền sở hữu trí tuệ: Việt Nam đã cam kết về chương trình hành động thực hiện hiệp định về vấn đề thương mại có liên quan đến sở hữu trítệ (TRíP) và tham gia vào công ước quốc tế về bảo hộ sở hữu trí tuệ như: công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Hiệp ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá, công ước thành lập tổ chức sở hữu trí tuệ.
Tham gia WTO khuyến khích năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài, khi thực hiện cam kết giảm hàng rào thuế quan và các biện pháp bảo hộ phi thuế quan, doanh nghiệp trong nước sẽ phải nỗ lực cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất để cạnh tranh với doanh nghiệp và sản phẩm từ nước mà không còn gặp phải thuế quan bảo hộ.
Đối với toàn bộ nền kinh tế, khi tham gia sâu hơn vào hoạt động thương mại quốc tế, những ngành lợi thế cạnh tranh dựa trên khai thác các nguồn lực tự nhiên sẽ giảm dần vai trò mà thay thế vào đó là các ngành dựa trên vốn, công nghệ để tạo ra giá trị gia tăng.
THÁCH THỨC:
Đối với toàn bộ nền kinh tế
Bảo vệ các ngành trong nước:
Đối với bất kì nền kinh tế nào, việc duy trì các ngành sản xuất trong nước có ý nghĩa rất quan trọng về mặt kinh tế cũng như xã hội.
- Về mặt kinh tế: sự phát triển các ngành tạo điều kiện duy trì sự phát triển cân đối giữa vùng, lãnh thổ, đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
- Về mặt xã hội: các ngành sản xuất trong nước là cơ sở duy trì việc làm cho nhân dân, nước ta đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế nên khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp trong nước còn hết sức thấp. Trong khi đó việc gia nhập WTO là thực hiện cam kết quốc tế về mở cửa thị trường tạo điều kiện cho tự do hoá thương mại và đầu tư.
Các điều kiện mở cửa thị trường, ngày càng chặt chẽ hơn nên nền kinh tế chịu nhiều sức ép hơn.
Kinh nghiệm cho thấy các quốc gia mới gia nhập WTO thường chịu những điều kiện cao hơn so với các quốc gia đã là thành viên ở cùng trình độ phát triển. Trung Quốc phải duy trì mức trợ cấp cho nông sản dưới 8,5% tổng sản lượng nông nghiệp. Mức thuế cam kết của các mới gia nhập ngày càng thấp hơn so với mức thuế mới cam kết của các quốc gia thành viên. Ngoài ra sau vòng đô-ha một số nội dung mở cũng được đưa vào đàm phán gia nhập như: vấn đề thương mại với môi trường. Vấn đề thương mại với điều kiện lao động, vấn đề sở hữu trí tuệ với liên quan tới sức khoẻ cọng đồng như thuốc chữa bệnh.
THÁCH THỨC: