1. Giải thích sự tương quan giữa cấu tạo 1 cơ quan tiêu hóa với các loại thức ăn khác nhau 2. Chỉ ra đặc điểm khác nhau trong cấu tạo và hoạt động của hệ tuần hoàn kín 3. Ý nghĩa của sự biến đổi vận tốc máu trong hệ mạch

2 câu trả lời

Đáp án:

 3

-vận tốc cao để kịp phân phối máu tới cơ thể

-vận tốc mao mạch chậm giúp trao đổi chất giữa máu và tb đc thuận lợi.

2

Hệ tuần hoàn kín

-Máu tiếp xúc gián tiếp với các tế bào.

-Máu chảy trong động mạch dưới áp lực cao, tốc độ máu chảy nhanh.

-Điều hoà và phân phối máu đến các cơ quan nhanh.

-Có ở mực ống, bạch tuộc, giun đốt, chân đầu và động vật có xương sống.

-Máu có chứa sắc tố hô hấp (ví dụ: hemogobin)

 

Đáp án:

 

Giải thích các bước giải:

 1.Tiêu hóa là sự phân hủy phân tử thức ăn không hòa tan lớn thành phân tử thức ăn tan trong nước nhỏ để có thể được hấp thu vào huyết tương. Trong cơ quan nhất định, các chất nhỏ được hấp thu qua ruột non vào hệ tuần hoàn. Tiêu hóa là một hình thức trao đổi chất, thường được chia thành hai quá trình dựa trên cách thức chia nhỏ thức ăn: tiêu hóa cơ học và tiêu hóa hóa học. Giai đoạn tiêu hóa cơ học đề cập đến sự phá vỡ vật lý phần lớn thức ăn thành miếng nhỏ mà sau đó có thể được enzyme tiêu hóa phân giải. Trong quá trình tiêu hóa hóa học, enzym phá vỡ thức ăn thành các phân tử nhỏ mà cơ thể có thể hấp thu.

Tiêu hóa protein

Quá trình tiêu hóa protein xảy ra ở dạ dày và tá tràng, trong đó có ba loại enzym chính là pepsin do dạ dày tiết ra và trypsin  chymotrypsin do tuyến tụy tiết ra sẽ phân hủy protein thức ăn thành polypeptid, sau đó được phân hủy bởi nhiều exopeptidaza  dipeptidaza thành các axit amin. Tuy nhiên, các enzym tiêu hóa chủ yếu được tiết ra dưới dạng tiền chất không hoạt động của chúng, các zymogens. Ví dụ, trypsin được tiết ra bởi tuyến tụy dưới dạng trypsinogen, được kích hoạt trong tá tràng bởi enterokinase để tạo thành trypsin. Sau đó, trypsin phân cắt protein thành các polypeptit nhỏ hơn.

Tiêu hóa chất béo

Quá trình tiêu hóa một số chất béo có thể bắt đầu trong miệng khi lipase lưỡi phân hủy một số lipid chuỗi ngắn thành diglyceride. Tuy nhiên chất béo chủ yếu được tiêu hóa ở ruột non.[18] Sự hiện diện của chất béo trong ruột non tạo ra các kích thích tố kích thích giải phóng lipase tuyến tụy từ tuyến tụy và mật từ gan, giúp tạo nhũ tương chất béo để hấp thụ axit béo.[18] Quá trình tiêu hóa hoàn toàn một phân tử chất béo (chất béo trung tính) tạo ra hỗn hợp các axit béo, mono- và di-glycerid, cũng như một số chất béo trung tính chưa được tiêu hóa, nhưng không có phân tử glycerol tự do.

Tiêu hóa carbohydrat

Ở người, tinh bột được cấu tạo bởi các đơn vị glucose sắp xếp thành chuỗi dài gọi là amylose, một polysaccharide. Trong quá trình tiêu hóa, liên kết giữa các phân tử glucose bị phá vỡ bởi amylase của nước bọt và tuyến tụy, dẫn đến các chuỗi glucose nhỏ dần. Điều này dẫn đến đường đơn glucose và maltose (2 phân tử glucose) có thể được ruột non hấp thụ.

Lactase là một loại enzyme phân hủy lactose disaccharide thành các thành phần của nó, glucose và galactose. Glucose và galactose có thể được hấp thụ bởi ruột non. Khoảng 65% dân số trưởng thành chỉ sản xuất một lượng nhỏ lactase và không thể ăn các thực phẩm làm từ sữa chưa lên men. Điều này thường được gọi là không dung nạp lactose. Không dung nạp lactose rất khác nhau tùy theo di sản di truyền; hơn 90 phần trăm người gốc Đông Á không dung nạp lactose, trái ngược với khoảng 5 phần trăm người gốc Bắc Âu.

Sucrase là một loại enzym phân hủy đường sucrose disaccharide, thường được gọi là đường ăn, đường mía hoặc đường củ cải. Quá trình tiêu hóa sucrose tạo ra đường fructose và glucose được ruột non hấp thụ dễ dàng.

Tiêu hóa DNA và RNA

DNA và RNA được chia thành các mononucleotide bởi các nuclease deoxyribonuclease  ribonuclease (DNase và RNase) từ tuyến tụy.

2.Hệ tuần hoàn kín:
Hệ thống tuần hoàn kín là hệ thống tuần hoàn trong cơ thể, ở đó máu lưu thông liên tục trong mạng lưới mạch máu. Trong hệ tuần hoàn kín thì máu được lưu thông dưới áp lực cao, và do đó, tốc độ chảy của máu sẽ nhanh hơn.
Hệ tuần hoàn hở:
Hệ tuần hoàn mở là hệ tuần hoàn trong cơ thể, tại hệ tuần hoàn hở không có mao mạch. Gọi là “hở” vì máu có thể thoát ra khỏi hệ thống tuần hoàn. Hệ thống này chỉ thích hợp với các động vật nhỏ như động vật chân đốt hoặc thân mềm.

3.

Giải thích sự biến đổi tốc độ máu trong hệ mạch.

 - Sự biến đổi tốc độ máu trong hệ mạch liên quan chủ yếu đến tổng tiết diện của mạch và sự chênh lệch huyết áp giữa hai đầu đoạn mạch.

- Tốc độ máu tỉ lệ nghịch với tổng tiết diện của mạch. Tổng tiết diện của mạch càng lớn thì tốc độ chảy của máu càng nhỏ. Trong hệ thống động mạch, tổng tiết diện tăng dần nên tôc độ máu giảm dần. Mao mạch có tổng tiết diện lớn nhất nên máu chảy với tốc độ chậm nhất. Trong hệ thống tĩnh mạch, tổng tiết diện giảm dần nên tốc độ máu tăng dần.

- Hai đầu mạch có áp suất chênh lệch. Khu vực tiếp giáp của một mạch với mạch có tiết diện lớn hơn hoặc nhỏ hơn gọi là hai đầu mạch. Ở đây, do sự tập trung hoặc sự phân tách của dòng máu sẽ tạo nên sự chênh lệch áp suất so với dòng máu trong mạch. Do vậy nên có tác động lên tốc độ máu.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm