Trần Quốc Tuấn là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia thời Trần. Ông là con của Khâm Minh Đại vương Trần Liễu - anh ruột của vua Trần Thái Tông. Như vậy, Trần Quốc Tuấn gọi vua Trần Thái Tông là chú ruột. Ông được sử cũ mô tả là người "thông minh hơn người".
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông lần thứ nhất (1258), ông được vua Trần Thái Tông phong làm tướng chỉ huy các lực lượng ở biên giới đánh quân xâm lược. Sau đó ông lui về thái ấp ở Vạn Kiếp.
Đến tháng 10 âm lịch năm 1283, quân Mông Nguyên chuẩn bị xâm lược nước ta lần thứ hai, Hưng Đạo vương được Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước.
Trên cương vị này, năm 1285, ông lãnh đạo quân sĩ chặn đánh đội quân xâm lược của quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy. Sau những thất bại ban đầu, quân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của hai vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã phản công mạnh mẽ, phá tan quân Nguyên trong các trận Hàm Tử, Chương Dương, Trường Yên, Vạn Kiếp... quét sạch quân Nguyên ra khỏi biên giới.
Năm 1288, quân Nguyên trở lại xâm lược nước ta lần thứ ba. Trần Quốc Tuấn tiếp tục được vua Trần và các tướng lĩnh cử làm Quốc công tiết chế thống lĩnh chỉ huy quân đội cả nước. Khi được nhà vua hỏi: “Giặc đến làm thế nào”, Trần Quốc Tuấn đã khẳng định với nhà vua: "Năm nay đánh giặc nhàn".
Ông đã dùng lại kế cũ của Ngô Quyền, đánh bại hoàn toàn thủy quân của tướng giặc Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp trong trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng. Sau đó, ông chỉ huy toàn bộ quân ta phản công tiêu diệt nặng nề cánh quân bộ binh, kỵ binh của giặc do Thoát Hoan chỉ huy tháo chạy bằng đường bộ.
Tháng 4 âm lịch năm 1289, vua Trần Nhân Tông chính thức phong ông làm Đại vương. Nhưng chức quyền đứng đầu triều đình khi đó vẫn thuộc về Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Sinh thời ông có viết các tác phẩm Hịch tướng sĩ, Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư nhằm động viên quân sĩ, phân tích nghệ thuật quân sự đỉnh cao.
Sau đó, ông lui về an nghỉ ở Vạn Kiếp và mất vào năm 1300. Sau khi ông mất, triều đình phong ông là "Thái sư Thượng Phụ Thượng Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương". Ông được nhân dân cả nước tôn vinh là "Đức Thánh Trần" và lập đền thờ ở nhiều nơi, song nổi tiếng hơn cả là Đền Kiếp Bạc ở xã Hưng Đạo - Chí Linh, Hải Dương.