Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng
(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm hơn 55% diện tích tự nhiên, trong đó rừng trồng có diện tích gần 120.000 ha, hàng năm cung cấp sản lượng gỗ có thể khai thác trên 300.000 m 3 (keo, bạch đàn...), Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng trồng rất lớn. Mấy năm gần đây, các cơ sở chế biến gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia đình đang phát triển nhanh tại các huyện
có nhiều rừng trồng ở Phú Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên, công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng ở đây còn bị đánh giá là thiếu quy hoạch và phát triển không bền vững, hiệu quả sử dụng nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang lại thu nhập xứng đáng cho người trồng rừng và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do gỗ được sử dụng ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các nhà máy giấy, một số cơ sở thu mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc hầu như không đáng kể. Theo kết quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và sấy khô quy mô lớn, sử dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu cầu sản xuất đồ mộc chất lượng cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ 10 đến 20 m 3 /ngày), sản phẩm gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp pha xây dựng hoặc làm nguyên liệu đóng các sản phẩm mộc dân dụng chất lượng thấp, phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Đây là nguyên nhân chính hạn chế khả năng đưa cây keo (sản phẩm chủ lực của rừng trồng) trở thành hàng hóa và là sản phẩm đặc trưng của bà con nhân dân miền núi.
(2) Tăng cường và chủ động khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sử dụng gỗ rừng trồng là định hướng của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo nói riêng của ngành công nghiệp chế biến gỗ ngày càng tăng, việc đầu tư xây dựng một mô hình chế biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung và gỗ keo nói riêng với công nghệ tiên tiến trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng rừng (nhờ việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ giá cao hơn). Xuất phát từ thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã đề xuất và được phê duyệt thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” (thuộc Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025). Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ công nghệ của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam).
(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ nhằm nâng cao chất lượ ng gỗ phục vụ chế biến ván ghép thanh, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng ở địa phương, phát triển chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo chất lượng cao.
(4) Sau hơn 2 năm thực hiện (tháng 11/2016-4/2019), dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu và nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã xây dựng được 1 hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất sấy 120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; xây dựng được quy trình công nghệ sấy gỗ rừng trồng (gỗ keo) phù hợp với hệ thống lò sấy đã xây dựng; tiếp nhận thành công công nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng...
(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo được 5 kỹ thuật viên làm chủ công nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy; sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy; kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi sấy, đồng thời tổ chức tập huấn cho 70 lao động phổ thông về kỹ thuật vận hành hệ thống sấy gỗ... Đặc biệt, trên cơ sở công nghệ được chuyển giao từ Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, dự án đã sản xuất được 500 m 3 sản phẩm gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản phẩm gỗ sấy của dự án đã được Công ty TNHH Trung Thành (Phú Thọ) ký hợp đồng tiêu thụ với công suất 4.000 m 3 /năm.
(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng 130.000 đồng/m 3 , còn khi bán gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên khoảng 370.000 đồng/m 3 . Như vậy, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m 3 , con số này chưa phải là cao nhất do chi phí ban đầu (khấu hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm chi phí khấu hao tài sản, chi phí nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận Công ty thu được sẽ cao dần lên. Bên cạnh hiệu quả kinh tế trực tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công ty đi vào hoạt động còn tạo thêm công ăn việc làm thường xuyên cho gần 30 công nhân.
(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Kết quả của dự án còn là mô hình hữu hiệu giới thiệu việc ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi để nhân rộng ra các địa phương khác.
(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Theo văn bản, tại tỉnh Phú Thọ đã thực hiện dự án gì để nâng cao chất lượng sản xuất gỗ?
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ”.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng
(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm hơn 55% diện tích tự nhiên, trong đó rừng trồng có diện tích gần 120.000 ha, hàng năm cung cấp sản lượng gỗ có thể khai thác trên 300.000 m 3 (keo, bạch đàn...), Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng trồng rất lớn. Mấy năm gần đây, các cơ sở chế biến gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia đình đang phát triển nhanh tại các huyện
có nhiều rừng trồng ở Phú Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên, công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng ở đây còn bị đánh giá là thiếu quy hoạch và phát triển không bền vững, hiệu quả sử dụng nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang lại thu nhập xứng đáng cho người trồng rừng và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do gỗ được sử dụng ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các nhà máy giấy, một số cơ sở thu mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc hầu như không đáng kể. Theo kết quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và sấy khô quy mô lớn, sử dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu cầu sản xuất đồ mộc chất lượng cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ 10 đến 20 m 3 /ngày), sản phẩm gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp pha xây dựng hoặc làm nguyên liệu đóng các sản phẩm mộc dân dụng chất lượng thấp, phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Đây là nguyên nhân chính hạn chế khả năng đưa cây keo (sản phẩm chủ lực của rừng trồng) trở thành hàng hóa và là sản phẩm đặc trưng của bà con nhân dân miền núi.
(2) Tăng cường và chủ động khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sử dụng gỗ rừng trồng là định hướng của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo nói riêng của ngành công nghiệp chế biến gỗ ngày càng tăng, việc đầu tư xây dựng một mô hình chế biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung và gỗ keo nói riêng với công nghệ tiên tiến trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng rừng (nhờ việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ giá cao hơn). Xuất phát từ thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã đề xuất và được phê duyệt thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” (thuộc Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025). Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ công nghệ của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam).
(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ nhằm nâng cao chất lượ ng gỗ phục vụ chế biến ván ghép thanh, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng ở địa phương, phát triển chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo chất lượng cao.
(4) Sau hơn 2 năm thực hiện (tháng 11/2016-4/2019), dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu và nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã xây dựng được 1 hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất sấy 120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; xây dựng được quy trình công nghệ sấy gỗ rừng trồng (gỗ keo) phù hợp với hệ thống lò sấy đã xây dựng; tiếp nhận thành công công nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng...
(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo được 5 kỹ thuật viên làm chủ công nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy; sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy; kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi sấy, đồng thời tổ chức tập huấn cho 70 lao động phổ thông về kỹ thuật vận hành hệ thống sấy gỗ... Đặc biệt, trên cơ sở công nghệ được chuyển giao từ Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, dự án đã sản xuất được 500 m 3 sản phẩm gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản phẩm gỗ sấy của dự án đã được Công ty TNHH Trung Thành (Phú Thọ) ký hợp đồng tiêu thụ với công suất 4.000 m 3 /năm.
(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng 130.000 đồng/m 3 , còn khi bán gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên khoảng 370.000 đồng/m 3 . Như vậy, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m 3 , con số này chưa phải là cao nhất do chi phí ban đầu (khấu hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm chi phí khấu hao tài sản, chi phí nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận Công ty thu được sẽ cao dần lên. Bên cạnh hiệu quả kinh tế trực tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công ty đi vào hoạt động còn tạo thêm công ăn việc làm thường xuyên cho gần 30 công nhân.
(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Kết quả của dự án còn là mô hình hữu hiệu giới thiệu việc ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi để nhân rộng ra các địa phương khác.
(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” nhằm mục đích gì?
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” nhằm mục đích nâng cao chất lượng gỗ, tăng sản lượng sản xuất.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng
(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm hơn 55% diện tích tự nhiên, trong đó rừng trồng có diện tích gần 120.000 ha, hàng năm cung cấp sản lượng gỗ có thể khai thác trên 300.000 m 3 (keo, bạch đàn...), Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng trồng rất lớn. Mấy năm gần đây, các cơ sở chế biến gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia đình đang phát triển nhanh tại các huyện
có nhiều rừng trồng ở Phú Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên, công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng ở đây còn bị đánh giá là thiếu quy hoạch và phát triển không bền vững, hiệu quả sử dụng nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang lại thu nhập xứng đáng cho người trồng rừng và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do gỗ được sử dụng ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các nhà máy giấy, một số cơ sở thu mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc hầu như không đáng kể. Theo kết quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và sấy khô quy mô lớn, sử dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu cầu sản xuất đồ mộc chất lượng cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ 10 đến 20 m 3 /ngày), sản phẩm gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp pha xây dựng hoặc làm nguyên liệu đóng các sản phẩm mộc dân dụng chất lượng thấp, phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Đây là nguyên nhân chính hạn chế khả năng đưa cây keo (sản phẩm chủ lực của rừng trồng) trở thành hàng hóa và là sản phẩm đặc trưng của bà con nhân dân miền núi.
(2) Tăng cường và chủ động khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sử dụng gỗ rừng trồng là định hướng của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo nói riêng của ngành công nghiệp chế biến gỗ ngày càng tăng, việc đầu tư xây dựng một mô hình chế biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung và gỗ keo nói riêng với công nghệ tiên tiến trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng rừng (nhờ việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ giá cao hơn). Xuất phát từ thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã đề xuất và được phê duyệt thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” (thuộc Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025). Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ công nghệ của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam).
(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ nhằm nâng cao chất lượ ng gỗ phục vụ chế biến ván ghép thanh, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng ở địa phương, phát triển chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo chất lượng cao.
(4) Sau hơn 2 năm thực hiện (tháng 11/2016-4/2019), dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu và nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã xây dựng được 1 hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất sấy 120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; xây dựng được quy trình công nghệ sấy gỗ rừng trồng (gỗ keo) phù hợp với hệ thống lò sấy đã xây dựng; tiếp nhận thành công công nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng...
(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo được 5 kỹ thuật viên làm chủ công nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy; sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy; kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi sấy, đồng thời tổ chức tập huấn cho 70 lao động phổ thông về kỹ thuật vận hành hệ thống sấy gỗ... Đặc biệt, trên cơ sở công nghệ được chuyển giao từ Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, dự án đã sản xuất được 500 m 3 sản phẩm gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản phẩm gỗ sấy của dự án đã được Công ty TNHH Trung Thành (Phú Thọ) ký hợp đồng tiêu thụ với công suất 4.000 m 3 /năm.
(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng 130.000 đồng/m 3 , còn khi bán gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên khoảng 370.000 đồng/m 3 . Như vậy, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m 3 , con số này chưa phải là cao nhất do chi phí ban đầu (khấu hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm chi phí khấu hao tài sản, chi phí nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận Công ty thu được sẽ cao dần lên. Bên cạnh hiệu quả kinh tế trực tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công ty đi vào hoạt động còn tạo thêm công ăn việc làm thường xuyên cho gần 30 công nhân.
(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Kết quả của dự án còn là mô hình hữu hiệu giới thiệu việc ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi để nhân rộng ra các địa phương khác.
(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Sau hơn 2 năm thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” vượt bao nhiêu phần trăm so với sản lượng đề ra?
Sau hơn 2 năm thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” vượt 30% so với sản lượng đề ra.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng
(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm hơn 55% diện tích tự nhiên, trong đó rừng trồng có diện tích gần 120.000 ha, hàng năm cung cấp sản lượng gỗ có thể khai thác trên 300.000 m 3 (keo, bạch đàn...), Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng trồng rất lớn. Mấy năm gần đây, các cơ sở chế biến gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia đình đang phát triển nhanh tại các huyện
có nhiều rừng trồng ở Phú Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên, công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng ở đây còn bị đánh giá là thiếu quy hoạch và phát triển không bền vững, hiệu quả sử dụng nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang lại thu nhập xứng đáng cho người trồng rừng và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do gỗ được sử dụng ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các nhà máy giấy, một số cơ sở thu mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc hầu như không đáng kể. Theo kết quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và sấy khô quy mô lớn, sử dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu cầu sản xuất đồ mộc chất lượng cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ 10 đến 20 m 3 /ngày), sản phẩm gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp pha xây dựng hoặc làm nguyên liệu đóng các sản phẩm mộc dân dụng chất lượng thấp, phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Đây là nguyên nhân chính hạn chế khả năng đưa cây keo (sản phẩm chủ lực của rừng trồng) trở thành hàng hóa và là sản phẩm đặc trưng của bà con nhân dân miền núi.
(2) Tăng cường và chủ động khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sử dụng gỗ rừng trồng là định hướng của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo nói riêng của ngành công nghiệp chế biến gỗ ngày càng tăng, việc đầu tư xây dựng một mô hình chế biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung và gỗ keo nói riêng với công nghệ tiên tiến trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng rừng (nhờ việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ giá cao hơn). Xuất phát từ thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã đề xuất và được phê duyệt thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” (thuộc Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025). Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ công nghệ của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam).
(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ nhằm nâng cao chất lượ ng gỗ phục vụ chế biến ván ghép thanh, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng ở địa phương, phát triển chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo chất lượng cao.
(4) Sau hơn 2 năm thực hiện (tháng 11/2016-4/2019), dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu và nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã xây dựng được 1 hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất sấy 120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; xây dựng được quy trình công nghệ sấy gỗ rừng trồng (gỗ keo) phù hợp với hệ thống lò sấy đã xây dựng; tiếp nhận thành công công nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng...
(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo được 5 kỹ thuật viên làm chủ công nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy; sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy; kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi sấy, đồng thời tổ chức tập huấn cho 70 lao động phổ thông về kỹ thuật vận hành hệ thống sấy gỗ... Đặc biệt, trên cơ sở công nghệ được chuyển giao từ Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, dự án đã sản xuất được 500 m 3 sản phẩm gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản phẩm gỗ sấy của dự án đã được Công ty TNHH Trung Thành (Phú Thọ) ký hợp đồng tiêu thụ với công suất 4.000 m 3 /năm.
(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng 130.000 đồng/m 3 , còn khi bán gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên khoảng 370.000 đồng/m 3 . Như vậy, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m 3 , con số này chưa phải là cao nhất do chi phí ban đầu (khấu hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm chi phí khấu hao tài sản, chi phí nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận Công ty thu được sẽ cao dần lên. Bên cạnh hiệu quả kinh tế trực tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công ty đi vào hoạt động còn tạo thêm công ăn việc làm thường xuyên cho gần 30 công nhân.
(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Kết quả của dự án còn là mô hình hữu hiệu giới thiệu việc ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi để nhân rộng ra các địa phương khác.
(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Theo văn bản, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là bao nhiêu?
Lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m3 .
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng
(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm hơn 55% diện tích tự nhiên, trong đó rừng trồng có diện tích gần 120.000 ha, hàng năm cung cấp sản lượng gỗ có thể khai thác trên 300.000 m 3 (keo, bạch đàn...), Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng trồng rất lớn. Mấy năm gần đây, các cơ sở chế biến gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia đình đang phát triển nhanh tại các huyện
có nhiều rừng trồng ở Phú Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên, công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng ở đây còn bị đánh giá là thiếu quy hoạch và phát triển không bền vững, hiệu quả sử dụng nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang lại thu nhập xứng đáng cho người trồng rừng và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do gỗ được sử dụng ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các nhà máy giấy, một số cơ sở thu mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc hầu như không đáng kể. Theo kết quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và sấy khô quy mô lớn, sử dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu cầu sản xuất đồ mộc chất lượng cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ 10 đến 20 m 3 /ngày), sản phẩm gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp pha xây dựng hoặc làm nguyên liệu đóng các sản phẩm mộc dân dụng chất lượng thấp, phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Đây là nguyên nhân chính hạn chế khả năng đưa cây keo (sản phẩm chủ lực của rừng trồng) trở thành hàng hóa và là sản phẩm đặc trưng của bà con nhân dân miền núi.
(2) Tăng cường và chủ động khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sử dụng gỗ rừng trồng là định hướng của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo nói riêng của ngành công nghiệp chế biến gỗ ngày càng tăng, việc đầu tư xây dựng một mô hình chế biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung và gỗ keo nói riêng với công nghệ tiên tiến trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng rừng (nhờ việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ giá cao hơn). Xuất phát từ thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã đề xuất và được phê duyệt thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” (thuộc Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025). Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ công nghệ của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam).
(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ nhằm nâng cao chất lượ ng gỗ phục vụ chế biến ván ghép thanh, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng ở địa phương, phát triển chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo chất lượng cao.
(4) Sau hơn 2 năm thực hiện (tháng 11/2016-4/2019), dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu và nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã xây dựng được 1 hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất sấy 120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; xây dựng được quy trình công nghệ sấy gỗ rừng trồng (gỗ keo) phù hợp với hệ thống lò sấy đã xây dựng; tiếp nhận thành công công nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng...
(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo được 5 kỹ thuật viên làm chủ công nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy; sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy; kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi sấy, đồng thời tổ chức tập huấn cho 70 lao động phổ thông về kỹ thuật vận hành hệ thống sấy gỗ... Đặc biệt, trên cơ sở công nghệ được chuyển giao từ Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, dự án đã sản xuất được 500 m 3 sản phẩm gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản phẩm gỗ sấy của dự án đã được Công ty TNHH Trung Thành (Phú Thọ) ký hợp đồng tiêu thụ với công suất 4.000 m 3 /năm.
(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng 130.000 đồng/m 3 , còn khi bán gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên khoảng 370.000 đồng/m 3 . Như vậy, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m 3 , con số này chưa phải là cao nhất do chi phí ban đầu (khấu hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm chi phí khấu hao tài sản, chi phí nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận Công ty thu được sẽ cao dần lên. Bên cạnh hiệu quả kinh tế trực tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công ty đi vào hoạt động còn tạo thêm công ăn việc làm thường xuyên cho gần 30 công nhân.
(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Kết quả của dự án còn là mô hình hữu hiệu giới thiệu việc ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi để nhân rộng ra các địa phương khác.
(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Bên cạnh hiệu quả kinh tế, án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” còn tạo nên hiệu quả xã hội nào?
Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng
(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm hơn 55% diện tích tự nhiên, trong đó rừng trồng có diện tích gần 120.000 ha, hàng năm cung cấp sản lượng gỗ có thể khai thác trên 300.000 m 3 (keo, bạch đàn...), Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng trồng rất lớn. Mấy năm gần đây, các cơ sở chế biến gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia đình đang phát triển nhanh tại các huyện
có nhiều rừng trồng ở Phú Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên, công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng ở đây còn bị đánh giá là thiếu quy hoạch và phát triển không bền vững, hiệu quả sử dụng nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang lại thu nhập xứng đáng cho người trồng rừng và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do gỗ được sử dụng ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các nhà máy giấy, một số cơ sở thu mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc hầu như không đáng kể. Theo kết quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và sấy khô quy mô lớn, sử dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu cầu sản xuất đồ mộc chất lượng cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ 10 đến 20 m 3 /ngày), sản phẩm gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp pha xây dựng hoặc làm nguyên liệu đóng các sản phẩm mộc dân dụng chất lượng thấp, phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Đây là nguyên nhân chính hạn chế khả năng đưa cây keo (sản phẩm chủ lực của rừng trồng) trở thành hàng hóa và là sản phẩm đặc trưng của bà con nhân dân miền núi.
(2) Tăng cường và chủ động khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sử dụng gỗ rừng trồng là định hướng của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo nói riêng của ngành công nghiệp chế biến gỗ ngày càng tăng, việc đầu tư xây dựng một mô hình chế biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung và gỗ keo nói riêng với công nghệ tiên tiến trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng rừng (nhờ việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ giá cao hơn). Xuất phát từ thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã đề xuất và được phê duyệt thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” (thuộc Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025). Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ công nghệ của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam).
(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ nhằm nâng cao chất lượ ng gỗ phục vụ chế biến ván ghép thanh, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng ở địa phương, phát triển chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo chất lượng cao.
(4) Sau hơn 2 năm thực hiện (tháng 11/2016-4/2019), dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu và nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã xây dựng được 1 hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất sấy 120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; xây dựng được quy trình công nghệ sấy gỗ rừng trồng (gỗ keo) phù hợp với hệ thống lò sấy đã xây dựng; tiếp nhận thành công công nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng...
(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo được 5 kỹ thuật viên làm chủ công nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy; sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy; kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi sấy, đồng thời tổ chức tập huấn cho 70 lao động phổ thông về kỹ thuật vận hành hệ thống sấy gỗ... Đặc biệt, trên cơ sở công nghệ được chuyển giao từ Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, dự án đã sản xuất được 500 m 3 sản phẩm gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản phẩm gỗ sấy của dự án đã được Công ty TNHH Trung Thành (Phú Thọ) ký hợp đồng tiêu thụ với công suất 4.000 m 3 /năm.
(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng 130.000 đồng/m 3 , còn khi bán gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên khoảng 370.000 đồng/m 3 . Như vậy, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m 3 , con số này chưa phải là cao nhất do chi phí ban đầu (khấu hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm chi phí khấu hao tài sản, chi phí nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận Công ty thu được sẽ cao dần lên. Bên cạnh hiệu quả kinh tế trực tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công ty đi vào hoạt động còn tạo thêm công ăn việc làm thường xuyên cho gần 30 công nhân.
(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Kết quả của dự án còn là mô hình hữu hiệu giới thiệu việc ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi để nhân rộng ra các địa phương khác.
(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng” chứng minh cho điều gì?
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng” chứng minh rằng khoa học và công nghệ phục vụ tốt cho phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Phương pháp nuôi bò nào được nhắc đến trong văn bản trên?
Phương pháp nuôi bò Zebu hoá được nhắc đến trong văn bản trên
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Đâu là nhận xét đúng về tình hình chăn nuôi bò ở các tỉnh miền núi phía Bắc?
Các tỉnh miền núi phía Bắc còn chậm phát triển và lạc hậu trong chăn nuôi bò.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Trong văn bản trên, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt” ở khu vực nào?
Trong văn bản trên, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở Trung du và miền núi Bắc Bộ”.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Trong văn bản, dự án đã tiến hành lai tạo giống bò nào để thụ tinh cho bò cái địa phương?
Trong văn bản, dự án đã tiến hành lai tạo giống bò Brahman để thụ tinh cho bò cái địa phương.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ nào?
Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Dự án xây dựng mô hình trồng cỏ voi lai VA06 đạt năng suất bao nhiêu?
Dự án xây dựng mô hình trồng cỏ voi lai VA06 đạt năng suất 350 tấn/ha/năm.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Nội dung chính của đoạn (9) là gì?
Nội dung chính của đoạn (9) nói về những thành quả khi thực hiện dự án.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Dự án nuôi bò ở trên đem lại ý nghĩa gì?
Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Ý chính của văn bản trên là:
Nội dung chính: KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc