+ Viết Đoạn văn ( 8-10) dòng : - Cảm nghĩ về Bác Hồ qua bài thơ " Cảnh khuya " và bài " Rằm Tháng Giêng" +Cảm nghĩ về lòng yêu quê hương , đất nước , yêu gia đình của người chiến sĩ qua bài " Tiếng Gà Trưa
2 câu trả lời
Đoạn 1: Tham khảo nhé!
Bài thơ “Rằm tháng giêng” Bác đã vẽ ra bức tranh ngày xuân tuyệt đẹp và có nhiều điều trăn trở về vận mệnh ẩn sâu trong từng câu thơ. Hình ảnh ánh trăng thường được sử dụng trong thơ Bác như một người bạn tri âm tri kỉ. Ở đây, ngay trong đêm Rằm vẫn luôn dõi theo, bầu bạn với Bác. Ở hai câu thơ đầu cảnh thiên nhiên được Bác miêu tả quá sống động làm ta tưởng như Bác đang rất nhàn nhã ngắm trăng. Nhưng không, bác ngắm trăng trong một hoàn cảnh rất đặc thù, chơi vơi giữa dòng nước. Để tránh sự truy lùng của quân địch, Bác cùng các chiên sĩ phải bàn bạc việc quân ở trên thuyền. Và ở nơi đó, ngay giữa trung tâm của đất trời, hồn thơ của Bác như giao hòa với thiên nhiên để vẽ lên cảnh thiên nhiên tuyệt sắc. Đọc câu thơ ta thấy thầm thương Bác, Người luôn đau đáu tấm lòng vì nước vì dân. Công việc bộn bề nhưng Bác vẫn luôn yêu thiên nhiên cảnh vật. Điều đó cho ta thấy tư thế ung dung lạc quan yêu đời của người chiến sĩ cách mạng. Câu thơ cuối thể hiện một niềm lạc quan, niềm tin vô cùng với cách mạng. Bài thơ “Rằm tháng Giêng” là một bài thơ độc đáo của Bác Hồ. Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên vô cùng của Bác đồng thời cũng nói lên tinh thần lạc quan giữa hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt.
Đoạn 2: Khó quá bạn lên GG nhé! :))
@buidangtien
đoạn 1
Cùng viết về ánh trăng nhưng trong hai bài thơ “Cảnh khuya” và bài thơ “Rằm tháng Giêng”, Hồ Chí Minh lại thể hiện một sắc thái, một cảm xúc đặc biệt. Cùng là ánh trăng đấy nhưng hình ảnh trong mỗi bài thơ lại mang một nét đẹp, lại chứa đựng những cảm xúc riêng của nhân vật trữ tình. Nếu trong bài thơ Cảnh khuya, Hồ Chí Minh vẽ ra khung cảnh đêm khuya ánh trăng được đặt trong mối quan hệ với vạn vật nơi rừng sâu và phản chiếu hình ảnh con người đang ôm mối suy tư khi liên quan đến vận nước, thì bài thơ Rằm tháng Giêng lại là bức tranh mùa xuân dưới ánh trăng Rằm, hình ảnh của nhân vật trữ tình đang trong tư thế lạc quan tự tại và niềm tin vào sự chiến thắng của Cách mạng, vào sự trường tồn của vận nước.
Trong bài thơ Cảnh khuya, Hồ Chí Minh đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, nó dường như trở lên sinh động hơn trong đêm trăng nhưng nổi bật lên trong bức tranh ấy là vẻ đẹp của một con người cách mạng đang trăn trở, suy tư về công việc của dân tộc, của đất nước:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Trong không gian tĩnh lặng của đêm khuya, tiếng suối róc rách chảy trong đêm vang vọng trong không gian, đặc biệt trong cảm nhận của Hồ Chí Minh thì tiếng suối này không như những tiếng suối thường nghe thấy mà nó dịu nhẹ hơn, da diết hơn, nó tựa như “tiếng hát xa” như có như không mà vọng lại. làm cho không gian vốn tĩnh lặng của đêm khuya tràn ngập âm thanh, như một khúc giao hưởng giữa rừng già. Không chỉ âm thanh mà ngay hình ảnh cũng kích thích, cũng hấp dẫn thị giác của người nhìn, đó là hình ảnh của bóng trăng lồng vào bóng của cây cổ thụ, bóng của cây cổ thụ lại lồng vào hoa, một sự kết hợp thật độc đáo.
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Trong không gian thanh vắng của đêm khuya, hình ảnh nhân vật trữ tình hiện lên với những nỗi trăn trở, suy tư. Đó là những suy tư về vận nước, về tương lai của một dân tộc, hình ảnh ấy làm cho người chiến sĩ cách mạng hiện lên thật đẹp, thật đáng trân trọng. Trong bài “Rằm tháng Giêng” lại khác, khung cảnh thiên nhiên mà chủ tịch Hồ Chí Minh gợi ra đó chính là khung cảnh của trời đất, sông nước khi có ánh trăng Rằm soi chiếu, cũng là ánh trăng đêm nhưng giữa hai bài thơ lại mang đến những sắc thái khác biệt, máu sắc và cảm xúc hoàn toàn khác biệt.
“ Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Bài thơ Rằm tháng Giêng là khung cảnh đêm xuân thật rực rõ, đó là cái bát ngát, rợn ngợp mà không kém phần sinh động, thi vị. Chỉ một từ láy “lồng lộng” thôi nhưng Hồ Chí Minh đã gợi ra giới hạn vô tận của không gian. Trong không gian rộng lớn ấy, ánh trăng Rằm không chỉ soi chiếu lên vạn vật làm cho chúng trở lên sáng rõ, tươi sắc hơn. Mà trên dòng sông, ánh trăng dường như đã hòa vào làm một với dòng nước, làm cho dòng nước ấy trở nên lộng lấy bởi sự kết hợp màu sắc giữa bầu trời, ánh trăng và không khí của mùa xuân, làm cho dòng sông mùa xuân vốn tươi đẹp lại tràn ngập sắc “xuân”, làm cho không sáng đêm khuya sáng bừng lên bởi vẻ đẹp của đất trời, của vạn vật.
“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng không phải bơi thuyền trên sông để ngắm cảnh mà nhằm một mục đích cao cả hơn, to lớn hơn, đó là “bàn việc quân”. Câu thơ gợi hình dung ra hình ảnh của Bác với những người cộng sự của mình đang luận bàn việc nước, những công việc có liên quan trực tiếp đến vận mệnh của một dân tộc. Không khí họp bàn khá nghiêm tức nhưng lại không bị lên gân, cường điệu một cách thái quá, điều này thể hiện được một tâm hồn tư thái, tinh thần bản lĩnh của những người làm chủ. Đặc biệt trong câu thơ này còn có sự kết hợp giữa cảnh vật với lòng người “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Hình ảnh ánh trăng ngân như báo hiệu một tương lai tươi sáng, rực rỡ của cách mạng, của đất nước.
Như vậy, ở trong cả hai bài thơ, Hồ Chí Minh đều thể hiện được tình yêu đối với thiên nhiên, vạn vật và phương tiện để truyền tải tình yêu ấy chính là ánh trăng, và troong cả hai bài thơ thì hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng cũng hiện lên thật đẹp, dù có trăn trở suy tư hay thư thái, tự tin thì đều rất đáng trân trọng, vì con người ấy dành trọn vẹn tình cảm, tâm hồn mình cho đất nước, cho quê hương
đoạn 2
Tuổi thơ! Hai tiếng thiêng liêng và dịu ngọt vang lên nhắc nhở chúng ta về một thời không bao giờ quên. Tuổi thơ gắn liền với những gì thân quen, gần gũi, bình dị nhất. Đó là bờ đê ven sông vu thả diều mỗi chiều hè, là cánh đồng bát ngát cánh cò bay, là những đêm trăng nô đùa bên đình làng... Mỗi người đều mang trong mình những kỉ niệm riêng về tuổi thơ. Đối với người chiến sĩ trong thi phẩm Tiếng gà trưa của nữ sĩ Xuân Quỳnh thì tuổi thơ gắn liền với âm thanh tiếng gà và đặc biệt gắn liền với hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm. Bài thơ như một tiếng ca trong trẻo, tha thiết về tình cảm bà cháu, tình yêu quê hương đất nước dạt dào.
Bài thơ mở đầu bằng lời kể rất tự nhiên:
Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn, tác giả đã đem đến lượng thông tin rất chi tiết. Người đọc hiểu rằng nhân vật trữ tình trong bài thơ là một chiến sĩ, đang trên đường hành quân ra trận chiến đấu, dừng nghỉ ở xóm nhỏ. Thời, điểm miêu tả là thời điểm hiện tại. Giữa không gian xóm nhỏ vang lên:
Tiếng gà ai nhảy ổ
“Cục... cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ.
Tiếng gà vang lên giữa trưa thể hiện một không gian làng quê yên bình, tĩnh lặng. Tác giả tỏ ra là người rất am hiểu cuộc sống của thôn quê, đã miêu tả chính xác âm thanh tiếng gà: “Cục... cục tác cục ta”. Dấu ba chấm đặt giữa câu khiến cho tiếng gà mái nhảy ổ trở nên sống động. Tiếng gà ấy không chỉ vang lên xoá tan không gian đang tĩnh mịch mà tiếng gà ấy như tiếng chuông thức tỉnh tâm hồn người chiến sĩ. Tác giả sử dụng liên tiếp điệp từ “Nghe” cùng với biện pháp nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong ba câu thơ tiếp khiến hình ảnh thơ càng giàu sức biểu cảm. “Nắng trưa” vốn là hình ảnh cảm nhận bằng thị giác nay cảm nhận bằng thính giác, “xao động” là từ chỉ cảm nhận của cảm giác thì trong câu thơ dùng chỉ cảm nhận của thính giác. Có lẽ tiếng gà trưa không phải chỉ làm “xao động nắng trưa” mà quan trọng hơn làm “xao động”, xốn xang tâm hồn người chiến sĩ. Tiếng gà trưa như một vị thuốc tinh thần, xua tan đi bao mệt mỏi “Nghe bàn chân đỡ mỏi” và đặc biệt nó nhắc nhở người chiến sĩ về một miền kí ức, kí ức của tuổi thơ “Nghe gọi về tuổi thơ”. Nhà thơ không sử dụng từ “nhớ về” mà dùng “gọi về” như muốn nhấn mạnh sức lay động mạnh mẽ của âm thanh tiếng gà.
Miên man theo tiếng gà trưa, người chiến sĩ đang từ thời điểm thực tại nhớ về quá khứ tuổi thơ của mình. Hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong dòng hồi ức đó là hình ảnh:
Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng.
Cách miêu tả của tác giả rất tự nhiên và đầy sức gợi. Nhà thơ lựa chọn những màu sắc rất tươi sáng“hồng, vàng, trắng” để miêu tả một bức tranh được sắc màu. Từ “này” được điệp lại hai lần, đứng đầu mỗi dòng thơ có tác dụng nhấn mạnh, tạo sự chú ý với người đọc. Tác giả chẳng khác nào một người họa sĩ đang giới thiệu với mọi người vẻ đẹp của bức tranh gà mái vàng đầy sức sống. Tuy nhiên, tiếng gà trưa, hình ảnh gà mái đẹp rực rỡ chỉ là nền để nhắc nhở người con xa quê về một người thân thiết, một người bà kính yêu, suốt đời tần tảo, nuôi cháu lớn khôn. Điều hấp dẫn là ở đây hình ảnh bà không xuất hiện bắt đầu với dáng lưng còng quen thuộc mà xuất hiện với tiếng “mắng yêu”:
Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng
Gà đẻ mà mày nhìn
Rồi sau này lang mặt!
Cháu về lấy gương soi
Lòng dại thơ lo lắng.
Hình ảnh người bà hiện lên rất tự nhiên, chân thực, gần gũi. Bà hiện lên với hành động, cử chỉ tảo tần, cần mẫn, cẩn thận:
Tiếng gà trưa
Tay bà khum soi trứng
Dành từng quả chắt chiu
Cho con gà mái ấp.
Từ láy “chắt chiu” đã gợi lên trong tâm trí người đọc, hình ảnh người bà nâng niu từng quả trứng. Bà đang nuôi dưỡng sự sinh sôi, nảy nở của đàn gà. Việc làm đó xuất phát từ tình yêu của bà dành cho cháu, vì vậy nó càng thiêng liêng, đáng quý:
Cứ hàng năm hàng năm
Khi gió mùa đông tới !
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới.
Bà lo lắng làm lụng vất vả tất cả chỉ vì đứa cháu thân yêu. Sáu dòng thơ là lời kể tâm tình, chứa chan bao cảm xúc. Đặc biệt hai câu cuối cho bận đọc thấy được tình cảm vô bờ bến của bà. Ta như cảm nhận được nụ cười rạng ngời niềm vui của bà khi thấy đứa cháu hạnh phúc, vui sướng với quần áo mới: “Ôi cái quần chéo go - ống rộng dài quét đất - Cái áo cánh trúc bâu - Đi qua nghe sột soạt”.Dù đó chỉ là “Cái quần chéo go”, hay “Cái áo cánh trúc bâu” giản đơn nhưng nó lại thấm đượm tình bà cháu. Vì vậy, nó càng trở nên ý nghĩa, đẹp hơn hết thảy quần áo lụa là, gấm vóc.
Bài thơ kết lại với sự quay về thực tại của nhân vật trữ tình cùng lời hứa đầy quyết tâm:
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
Nhà thơ đã khéo léo trong việc tổ chức các hình ảnh, từ hình ảnh lớn lao, kì vĩ như “Tổ quốc, xóm làng” đến hình ảnh cụ thể, gần gũi, nhỏ bé là bà, là tiếng gà cục tác là “ổ trứng hồng”. Tình yêu Tổ quốc luôn đứng trên tất cả và với người chiến sĩ này dường như tình yêu đó được chắt chiu, kết tinh từ những tình yêu bình dị. Nói cách khác, động lực thôi thúc người chiến sĩ ra trận là sự bình yên của xóm làng, sự bình yên của bà và cả sự bình yên của những giấc mơ tuổi thơ. Bài thơ khép lại với hình ảnh thật đẹp, thật bình yên “ổ trứng hồng tuổi thơ”.
- Trường từ vựng
- Bố cục của văn bản
Tiếng gà trưa thực sự là một thi phẩm đặc sắc từ hình thức thể hiện đến nội dung biểu đạt. Bài thơ được làm theo thể thơ 5 chữ, cách gieo vần rất tự nhiên. Đặc biệt câu thơ ba chữ “tiếng gà trưa”được lặp lại bốn lần ở đầu các đoạn thơ có tác dụng nhấn mạnh và kết nối liền mạch các khổ thơ với nhau. Tiếng gà đã đánh thức bao kỉ niệm, bao tình cảm thiêng liêng của người chiến sĩ. Người đọc hiểu rằng tình yêu nước có thể được đánh thức, bắt đầu từ những gì bình dị nhất.
Đã hơn hai mươi năm trôi qua kể từ ngày nữ sĩ Xuân Quỳnh cùng chồng và con trai ra đi sau tai nạn thảm khốc nhưng những vần thơ của chị vẫn còn sống mãi trong lòng bạn đọc. Nếu phải chọn những bài thơ đặc sắc nhất viết về tình cảm bà cháu, về kỉ niệm tuổi thơ, tôi tin chắc rằng sẽ không thể không có Tiếng gà trưa. Một bài thơ chứa chan nỗi niềm cảm xúc, thấm đượm tình yêu thương.