Vẻ đẹp người phụ nữ vn qua bài " Thương vợ" của Trần tế xương
2 câu trả lời
Người phụ nữ đã đi vào văn học khá nhiều và trở thành một trong những hình tượng lớn của văn chương kim cổ. Tuy nhiên viết về người phụ nữ với tư cách là một người vợ bằng tình cảm của một người chồng thì quả thật rất hiếm. Thương vợ của Tú Xương nằm trong số những trường hợp hiếm hoi đó. Bài thơ là chân dung bà Tú, người bạn đời của Tú Xương, được tái hiện bằng tất cả tấm lòng chân thành của một người chồng dành cho vợ.
Hình ảnh bà Tú hiện lên trước hết gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Thân đàn bà chân yếu tay mềm nhưng bà Tú vẫn phải một mình làm lụng buôn bán, một mình xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ để lặn lội kiếm sống. Cái gian truân khó nhọc được cụ thể hoá bằng thời gian quanh năm, bằng không gian ven sông, quãng vắng, buổi đò đông. Nghĩa là triền miên suốt năm suốt tháng không ngơi không nghỉ, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối. Đặt trong những không gian, thời gian trên hình ảnh bà Tú dường như lại càng trở nên nhỏ bé, cô đơn, tội nghiệp hơn. Cái vất vả nhọc nhằn còn được hiện rõ trong gánh nặng mà bà Tú phải gánh trên vai: Một gia đình với năm con và một chồng. Năm đứa con với biết bao nhu cầu, bao đòi hỏi hàng ngày, bên cạnh đó đức ông chồng giàu chữ nghĩa đã không giúp vợ được gì lại còn trở thành một mối bận tâm lo lắng của vợ, mà nhu cầu của ông chồng ấy nào có ít ỏi gì, nó đủ làm thành một phía để cân bằng với phía năm đứa con. Thế mới biết cuộc sống hằng ngày của bà Tú là như thế nào. Lo cho con, lo cho chồng, mà phải lo làm sao cho đủ tức là không thừa nhưng cũng không được thiếu. Bằng chừng ấy nỗi lo trĩu nặng trên đôi vai gầy của người vợ, người mẹ ấy. Chính vì vậy mà phải bươn chải nắng mưa khuya sớm, bất kể hiểm nguy hay đơn độc. Nói sao cho xiết những nhọc nhằn cơ cực mà bà Tú phải gánh trong suốt cuộc đời của mình. Hình ảnh bà Tú gợi cho ta nghĩ tới hình ảnh của những người đàn bà đảm đang, lam lũ, lặn lội kiếm sống nuôi chồng, nuôi con đã lặng lẽ đi qua trong cuộc sống dân tộc.
Cuộc đời nhiều gian truân vất vả đó là sự thiệt thòi của bà Tú. Thế nhưng cũng chính cuộc đời đó đã làm nổi bật bao vẻ đẹp đáng quý ở người phụ nữ này, vẻ đẹp đầu tiên là vẻ đẹp của sự tảo tần, chịu thương chịu khó. Gánh cả một gánh nặng gia đình trên vai với bao khó khăn cơ cực, lại cô đơn thui thủi một mình, không người sẻ chia giúp đỡ, ấy vậy mà vẫn cần mẫn, không một chút chểnh mảng, bỏ bê công việc. Bà Tú cứ vậy, chăm chỉ, miệt mài, chịu thương, chịu khó, không nề hà khó khăn nguy hiểm, không quản ngại nắng mưa khuya sớm. Hình ảnh thơ không chỉ diễn tả bao nỗi vất vả mà còn làm nổi bật sự nhẫn nại, kiên trì kiếm sống chu tất cho chồng, cho con của bà Tú. Diễn tả đầy đủ nhất điều này có lẽ không câu thơ nào hơn hai câu:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông."
Con cò, thân cò là hình ảnh quen thuộc trong văn học truyền thống, là biểu tượng cho người nông dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Dùng hình ảnh "lặn lội thân cò", Tú Xương đã khái quát được bao phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam truyền thống mà đức tính nổi bật chính là sự tần tảo, chịu thương chịu khó.
Bà Tú còn đẹp ở sự đảm đang tháo vát, ở sự chu đáo với chồng, với con. Cảnh làm ăn kiếm sống của bà Tú thật không dễ dàng gì, nhưng không lúc nào ta thấy bà Tú bó tay chùn bước, lúc thì một mình lặn lội nơi quãng vắng, khi lại đua chen giành giật chốn đò đông. Tất cả đều để chu tất cho gia đình: nuôi đủ năm con với một chồng. Sức vóc một người đàn bà giữa thời buổi cơm cao gạo kém mà vẫn đảm bảo cho chồng cho con một cuộc sống dẫu chưa phải là sung túc nhưng không đến nỗi thiếu thốn như vậy thì quả là giỏi giang hiếm có. Đó là minh chứng cho cái tháo vát đảm đang ở bà Tú, cũng là biểu hiện thuyết phục về tấm lòng hết mực dành cho con cho chồng của người phụ nữ này.
Không chỉ có vậy, qua sự thể hiện của nhà thơ, bà Tú còn hiện lên với một đức hi sinh cao cả. Dẫu bao nhiêu khó khăn vất vả bà Tú vẫn không một lời kêu than phàn nàn, không một lời oán trách. Một mình bà âm thầm, lặng lẽ gánh trọn gánh nặng gia đình. Ngay cả khi ý thức một thực tế cay đắng trong quan hệ vợ chồng, một duyên hai nợ thì bà Tú vẫn chấp nhận tất cả sự vất vả nhọc nhằn về phía mình - Năm nắng mười mưa dám quản công. Đó là sự hi sinh quên mình, là tấm lòng vị tha hết mực của bà Tú dành cho ông Tú và những đứa con.
Được tái hiện bằng tấm lòng thương vợ chân thành, sâu sắc của Tú Xương, hình ảnh bà Tú trong bài thơ đã trở thành một hình ảnh đẹp tiêu biểu, điển hình cho những người phụ nữ, những người vợ Việt Nam ngàn đời.
1. Mở bài
_Giới thiệu bài thơ Thương vợ cùng yêu cầu của đề: vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
2. Thân bài
a. Người phụ nữ vất vả, lam lũ, chịu thương chịu khó.
_Hoàn cảnh của bà Tú:
+ Thời gian “quanh năm”: làm việc chăm chỉ.
+ Công việc: buôn bán đầy rẫy thị phi.
+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông và có phần hơi nguy hiểm nếu không cẩn thận.
+ Một mình làm việc nuôi chồng, nuôi con: Nuôi đủ sáu miệng ăn. Từ "nuôi đủ" gợi bao nhọc nhằn.
_CÔng việc buôn bán lăn xả, mệt nhọc:
+"Lặn lội”: gợi vất vả đủ bề.
+“thân cò”: nỗi đau thân phận và tình cảnh éo le khi một mình nuôi chồng, nuôi con.
+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút vói rất nhiều nguy hiểm.
+ Eo sèo: chen lấn, xô đẩy, giành giật nhau trên mảnh đất mom sông vốn nguy hiểm đấy.
+ Buổi đò đông: đối mặt với đủ mệt nhọc mà không được từ bỏ vì nuôi chồng, nuôi con.
b Chăm sóc chu đáo cho chồng con, chịu phần khó nhọc về mình.
+ “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn cho gia đình và một mình gánh vác trách nhiệm cùng bao nhọc nhằn.
c. ý thức được số phận và tuyệt nhiên không ngần ngại hi sinh.
+ “Một duyên hai nợ”: hiểu được tình cảnh số phận và không than vãn nửa lời.
+ “dám quản công”: hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con.
3. Kêt bài:
- Khẳng định lại những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú- vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Bài làm.
Chúng ta đã được biết đến rất nhiều về thân phận người phụ nữ. Ca dao xưa cũng nói về vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ. Thương cảm thân phận người phụ nữ, chúng ta không chỉ thấy trong ca dan dân ca hay bà chúa thơ Nôm mà còn có Trần Tế Xương với Thương vợ. Người vợ của nhà thơ- bà Tú chính là đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Chân dung bà hiện lên trước hết là người phụ nữ vất vả, chịu thương, chịu khó.
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Người phụ nữ sống trong hoàn cảnh rất vất vả. Bà luôn tảo tần, vất vả nơi mom sông – nơi ẩn chứa rất nhiều mối hiểm nguy đến tính mạng. Một người phụ nữ nhưng lại phải đối mặt vô vàn vất vả. Đồng tiền kiếm được vô cùng khó khăn, bà Tú phải làm quần quật để có được số tiền ít ỏi ấy. Và bà Tú phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Chỉ một từ "nuôi đủ" cho ta hiểu rằng nỗi nhọc nhằn của bà vô cùng lớn. Một người phụ nữ không được yên ổn mà luôn phải đối mặt vói muôn vàn vất vả. “Năm con với một chồng” lời thơ sao mà chua xót đến thế. Đó chính là áp lực lớn đè nặng lên đôi vai gầy của người phụ nữ đáng thương! CHỉ một mình bà đối mặt với nỗi cực nhọc này. Nhưng bà không hề than vãn hay kêu ca nửa lời mà luôn cam chịu, hi sinh.
Cách dùng từ ví von của nhà thơ- “thân cò” là vô cùng đúng đắn. Đây cũng là hình ảnh mà ta thường bắt gặp trong ca dao xưa khi nói về nhọc nhằn của người nông dân lam lũ. Bà lặn lội khi quãng vắng, rồi lại “eo sèo mặt nước buổi đò đông” công việc đòi hỏi người phụ nữ phải chịu muôn vàn khó nhọc. Từ “lặn lội”, “eo sèo” đã nhấn mạnh hơn sự vất vả, bon chen của bà Tú trong công việc mưu sinh.
Với tình yêu chồng, thương con, bà hiểu trách nhiệm và gánh nặng của mình. Để đảm bảo cho chồng con có cuộc sống tốt đẹp, bà Tú không quản ngại nhọc nhằn. Dù làm nghề buôn bán quanh năm ồn ã, xô bồ, thì bà Tú cũng phải gắng vì chồng con ở nhà. Một mình bà nuôi cả bảy miệng ăn, một mình bà gánh vác cuộc sống của gia đình. Và ta cũng thấy thật chua xót khi chỉ một người chồng chữ nghĩa như ông tú thôi lại bằng công bà nuôi cả năm đứa con. Nói về cái vô dụng, cái kém cỏi ở bản thân, Tú Xương càng muốn khẳng định đức hi sinh của người vợ.
Nhưng dù có khổ cực đến đâu đi nữa, với tình yêu thương với sự thấu hiểu, người phụ nữ ấy vẫn luôn đứng vững trong mọi sóng gió và cam chịu hoàn cảnh:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Toàn bài thơ ta không một lần nghe thấy tiếng than thở, kêu than của bà Tú. Tấm lòng của bà quá rộng lớn và bao dung để ôm tất cả nhọc nhằn ấy vào mình. Và. dù “năm nắng” hay “mười mưa” bà nào có “quản công” nhọc nhằn, vât vả. Một mình bà sẵn sàng gánh vác cả gia đình trong sự chịu thương, chịu khó. Khó nhọc nào bà cũng cố kiên trì vì chồng, vì con. Và vẻ đẹp, đức hạnh ở người phụ nữ ấy khiến người chồng Tế Xương vô cùng cảm động, kính trọng. Có lẽ đó cũng là niềm an ủi lớn nhất cho bao nhọc nhằn của bà.
Bài thơ khép lại trong tình yêu, trong sự trân trọng của người chồng- ông Tú trước hình ảnh chân thực về người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh và luôn hết lòng vì chồng con. Vẻ đẹp của bà Tú cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam không chỉ xưa mà còn luôn sáng trong cuộc sống hôm nay.