Từ thắng lợi của ba lần kháng chiến mông Nguyên hãy rút ra bài học kinh nghiệm đối với cuộc sống xây dựng độc lập và bảo vệ tổ quốc hiện nay của nước ta. Giúp mk nha

2 câu trả lời

-Bài học về xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc

-Bài học tổ chức và chuẩn bị lực lượng kháng chiến

-Bài học chấp thời cơ phản công bất ngờ 

- Củng cố đoàn kết toàn dân trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

- Sự quan tâm của nhà nước đến toàn dân, giựa vào dân để đánh giặc

Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết với những chính sách đúng đắn, kịp thời, linh động, với lòng yêu nước và sức đoàn kết hăng hái của toàn dân trong và ngoài Mặt trận Việt Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi. Bài học quý giá đó đang được phát huy cao độ trong tình hình hiện nay, nhất là phòng, chống dịch COVID-19.

Chủ nghĩa yêu nước và đoàn kết là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ xưa đến nay. Không giống như Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo du nhập từ ngoài vào, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đoàn kết xuất phát từ tình cảm của con người Việt Nam đối với quê hương xứ sở, được củng cố và vun bồi bởi những cuộc khởi nghĩa và kháng chiến chống xâm lược; là sản phẩm của lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Khởi nghĩa, cách mạng, kháng chiến hay xây dựng đất nước, thời nào cũng vậy, có hai nhân tố chủ yếu cực kỳ quan trọng có ý nghĩa quyết định, đó là lãnh đạo tổ chức và sự đồng lòng ủng hộ của toàn dân mà hạt nhân là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và khát vọng giải phóng, phát triển.

Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân ta. Lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng và giữ nước của cha ông cho thấy lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Trần Quốc Tuấn chỉ ra nguyên nhân căn bản làm nên thắng lợi của quân dân đời Trần thế kỷ XIII trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên là “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”. Ông dặn vua Trần “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Nguyễn Trãi từng nghe “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” đi tới đúc kết trong Bình Ngô đại cáo: 

“Nêu hiệu gậy làm cờ, tụ họp bốn phương dân chúng.

Thết quân rượu hòa nước, dưới trên đều một bụng cha con”. 

Theo Nguyễn Trãi, vận nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức mạnh của dân quyết định. Ông chỉ rõ “chở thuyền là dân. Lật thuyền là dân. Thuyền bị lật mới biết sức dân như nước”. Thời Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Quang Trung trong các cuộc chiến đấu, lúc thắng lúc bại, nhưng rồi cuối cùng vẫn thắng vì dân ta đoàn kết và kiên gan, “đồng tâm, hiệp lực mấy phen đuổi tàu”(1).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chỉ rõ: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(2). 

Từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng, đoàn kết gắn với lãnh đạo tổ chức chặt chẽ. Các hình thức mặt trận ra đời để tăng cường sức mạnh đoàn kết. Phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dươngnhững năm 1936-1939, bên cạnh những ưu điểm lớn, cũng để lại bài học kinh nghiệm quý báu về lòng dân và đoàn kết như Bác Hồ đã chỉ ra: “Nó dạy cho chúng ta rằng: Việc gì đúng với nguyện vọng của nhân dân thì được nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh, và như vậy mới thật là một phong trào quần chúng. Nó cũng dạy cho chúng ta rằng: Phải hết sức tránh những bệnh chủ quan hẹp hòi”(3). Tiếp đó, với chính sách của Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, một luồng gió mới về đoàn kết được thổi đến. Những cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Bắc Sơn, Đô Lương cho thấy đồng bào ta quyết nối gót tổ tiên, phấn đấu hy sinh đặng phá tan xiềng xích, giành tự do độc lập. Nhưng việc lớn chưa thành mà nguyên nhân như Bác Hồ chỉ ra là “không phải vì đế quốc mạnh, nhưng một là vì cơ hội chưa chín, hai là vì dân ta chưa hiệp lực đồng tâm”(4).

Để thực hiện nhiệm vụ đánh đuổi Pháp, Nhật, khởi nghĩa giành chính quyền, khôi phục lại độc lập tự do, Bác Hồ nhấn mạnh dân ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn. Người kêu gọi:

“Hỡi ai con cháu Rồng Tiên!

Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.

Bất kỳ nam nữ, giàu nghèo,

Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.

Người giúp sức, kẻ giúp tiền,

Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta”(5)

Đúc kết các bài học kinh nghiệm quý báu của tổ tiên và mấy chục năm đầu khi Đảng ta vừa ra đời, từ năm 1941, với quyết định “thay đổi chiến lược” tại Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), Đảng ta và Bác Hồ đã đem lại một sinh khí mới, một năng lượng và xung lực mới cho đại đoàn kết toàn dân tộc.

Để phù hợp với tình hình thay đổi và xuất phát từ thực tiễn, mà thực tiễn lớn nhất từ khi dân ta chịu ách áp bức một cổ hai tròng cả Pháp và Nhật là yêu cầu, nguyện vọng bức thiết của nhân dân, Đảng ta nhận định cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp giành tự do độc lập. Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc.

Đảng chỉ rõ chiến thuật vận động là làm thế nào có lợi cho việc cốt yếu đánh đuổi Pháp - Nhật, thực hiện cho được cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng ta xác định điều cốt tủy là phải có một phương pháp làm sao đánh thức được lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong nhân dân Việt Nam. Xác định tên gọi của mặt trận phải thể hiện được một mãnh lực dễ hiệu triệu và có thể thực hiện được trong tình hình thực tiễn lúc bấy giờ, Đảng ta và Hồ Chí Minh quyết định tên gọi mặt trận là Việt Nam độc lập đồng minh, nói tắt là Việt Minh. Khẩu hiệu chính của Việt Minh là đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập, hoãn cách mạng ruộng đất. 

Bài học xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, rút kinh nghiệm từ thực tiễn; xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn dân được Đảng ta và Bác Hồ vận dụng vào khi thành lập, tổ chức và triển khai hoạt động của Mặt trận Việt Minh. Đảng ta xác định sự thống nhất và sức mạnh của Việt Minh không phải trên hình thức và lý thuyết, mà giá trị và hiệu quả là căn cứ vào hành động, mà cốt yếu và hạt nhân là cứu quốc. Từ đó các tổ chức cứu quốc được thành lập như: Công nhân cứu quốc hội, Nông dân cứu quốc hội, Thanh niên cứu quốc hội, Phụ nữ cứu quốc hội, Quân nhân cứu quốc hội, Văn nhân cứu quốc hội, Giáo viên cứu quốc hội, Phụ lão cứu quốc hội, Học sinh cứu quốc hội, Nhi đồng cứu vong hội. Đảng cũng chủ trương mở rộng tổ chức vào trong các tầng lớp khác có ít nhiều tinh thần yêu nước, căm thù giặc Pháp - Nhật, thành thực cứu nước, cứu dân, muốn giải phóng dân tộc, như cai ký, đốc công, phú nông, địa chủ. Đó có thể là tổ chức Ủng hộ quỹ Việt Minh, hay Phú hào cứu quốc. 

Đảng gợi ý Việt Minh ra khẩu hiệu, điều lệ, phương pháp tổ chức phải linh hoạt, mềm dẻo, thích hợp từng lúc, từng nơi, lấy thực tế lợi ích làm trọng để dễ thu phục hội viên và tạo điều kiện cho các đoàn thể phát triển. Lấy danh nghĩa các đoàn thể cứu quốc, Việt Minh khêu gợi tinh thần ái quốc mạnh mẽ thức tỉnh một cách thống thiết những tình cảm ái quốc của nhân dân. Đảng lãnh đạo Việt Minh nhưng nhân danh là một đoàn thể cứu quốc khác. Ở đó, nhờ đường lối chính trị đúng đắn và tinh thần hy sinh của Đảng, nên có ảnh hưởng lớn và uy tín mạnh để lãnh đạo toàn dân hăng hái chống quân thù. Tuy nhiên, vấn đề cốt yếu là khơi dậy lòng yêu nước, đề cao tinh thần ái quốc, cứu quốc để huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc nên “phải tránh những lối tuyên truyền khô khan, trong lúc này không nên đưa chủ nghĩa cộng sản ra tuyên truyền… không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xôviết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”