Tình cảm thương vợ của ông Tú qua bài thơ Thương Vợ của Trần Tú Xương .Từ đó anh chị hãy liên hệ đến hình ảnh người phụ nữ qua đoạn thơ sau đó là 4 câu thơ đầu trong bài thơ Tự Tình 2

2 câu trả lời

Chào em, với đề bài này, em tham khảo gợi ý sau em nhé:

1. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả Tế Xương và bài thơ "Thương vợ"

- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Tình cảm thương vợ của ông Tú.

2. Thân bài

a. Tình cảm thương vợ của ông Tú trong bài thơ

- Yêu quý, trân trọng người vợ của mình: Thơ xưa, viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống càng ít hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khóc vợ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Bà Tú có thể đã phải chịu nhiều nhọc nhằn, gian khó của cuộc sống nhưng bù lại bà có niềm hạnh phúc mà rất nhiều người phụ nữ xưa không có được: ngay lúc còn sống, bà đã đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng.

- Đằng sau cốt cách khôi hài của ông Tú là sự thấu hiểu nỗi nhọc nhằn, vất vả, lam lũ trong công việc của bà Tú; ông không chỉ thương mà còn tri ân vợ. (Phân tích câu thơ "Nuôi đủ năm con với một chồng").

- Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hi sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân (Chú ý phân tích 2 câu kết).

=> Tình cảm chân thành, rất đáng trân trọng người vợ của Tú Xương cũng như nhà nho chân chính Tú Xương.

b. Liên hệ

- 4 câu thơ đầu trong bài thơ "Tự tình II": Phân tích để thấy được tâm trạng buồn tủi trước duyên phận của Xuân Hương

- Liên hệ: Cả hai tác giả đều viết về người phụ nữ song bài thơ Thương vợ - đây là một người phụ nữ truyền thống; trong khi bài thơ "Tự tình II" - đây là một người phụ nữ tài giỏi, phá cách, nổi loạn, dám đương đầu với những bất công ngang trái của xã hội phong kiến đương thời.

3. Kết bài

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng”

“Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú “buôn bán ở mom sông”, nơi mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước, nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời lắm cay cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”.

Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc, … chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia cảnh gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.

Có thể nói, hai câu thơ trong phần đề, Tú Xương ghi lại một cách chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, đảm đang của mình.

Phần thực, tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. Ngôn ngữ thơ tăng cấp, tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng; đã “lặn lội” Lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sông ở “mom sông” tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh “con cò” cái cò trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “Con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông,..” được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:

“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

“Eo sèo” là từ láy tượng thanh chi sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hồi, nước mắt giữa thời buổi khổ khăn! Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:

Câu hỏi trong lớp Xem thêm