''Tình cảm thương vợ của nhà thơ Trần Tế Xương trong bài thơ ''Thương vợ'' là biểu hiện của một nhân cách cao đẹp", bằng hiểu biết của mình hãy là sáng tỏ ý kiến trên.
2 câu trả lời
Nói đến thơ trào phúng trong thế kỉ XIX, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều nghĩ đến những vần thơ của Nguyễn Khuyến, Học Lạc, Tú Quỳ, Nhiêu Tâm,… Và Tú Xương (Trần Tế Xương) cũng là một trong số đó. Tuy tuổi đời ngắn ngủi nhưng Tú Xương đã để lại cho dời một sự nghiệp thơ ca bất tử. Ông sáng tác chủ yếu là thơ trữ tình và thơ trào phúng. Đặc biêt Tú Xương có cả một mảng thơ, văn tế, câu đối viết về vợ. Thương vợ là một trong những bài thơ hay nhất của Tú Xương khi viết về bà Tú.
Bà Tú – vợ của Tú Xương hơn tác giả một tuổi, vốn là con một trong gia đình nho giáo nên từ nhỏ đã không phải chịu cảnh chân lấm tay bùn. Trong bài Văn tế sống vợ Tú Xương từng viết : “Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo, rằng lùn”. Nhưng kể từ khi bà lấy Tú Xương lại phải chịu nhiều vất vả, gian truân, lặn lội buôn bán kiếm sống để nuôi chồng, nuôi con. Tuy nhiên cuộc đời bà lại có được tất cả tinh yêu thương, trân trọng từ ông Tú mà hiếm người phụ nữ trong Xã hội Phong kiến có được.
Tình thương vợ sâu nặng được tác giả thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả, gian truân và những đức tính cao đẹp của bà Tú. Trong bài thơ, bà Tú hiện ra rất chân thực với cuộc sống lam lũ, vất vả:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Ngay câu thơ đầu, tác giả dã nói nên hoàn cảnh nơi bà Tú buôn bán: mom sông. Câu thơ vào đề thật tự nhiên như một lời giới thiêu, lại như một bối cảnh bà Tú tảo tần tất bật ngược xuôi buôn bán. Sự vất vả, lam lũ của người phụ nữ ấy được gợi lên thông qua cách nói thời gian “quanh năm”. “quanh năm” nghĩa là suốt cả ngày, hết năm này đến, liên tiếp đến chóng mặt. Thời gian đã vậy nhưng nếu không gian mà thanh bình, thuận lợi thì cũng không đáng để nói. Thế nhưng bà Tú lại tất tả ngược xuôi buôn bán quanh năm ở chỗ “mom sông” – phần đất ở bờ sông nhô ra giữa dòng sông – nơi buôn bán vô cùng chênh vênh, nguy hiểm. Cái công việc nặng nề ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả đời, bởi nó chẳng làm cho bà khá hơn lên. Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà là “năm con với một chồng”, “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng ông chồng, là “một”, nhưng là chi phí bằng cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ, chưa nói đến khi đồng chè đồng rượu,… Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào, chiều chồng biết chừng nào!
Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.”
Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò- biểu tượng trong ca dao xưa để nói về bà Tú. Khi vận dụng hình ảnh, ngôn ngữ văn học dan gian, Tú Xương đã có những sáng tạo độc đáo. Nếu ca dao nói đên sự vất vả của người phụ nữ thương chồng là:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.”
thì Tú Xương nói đến sự lam lũ của vợ chân thực và sâu sắc hơn: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Như vậy, “con cò’ trong thơ của tác giả không chỉ xuất hiện giữa cái rợn ngợp của không gian mà còn có sự rợn ngợp của thời gian. Chỉ với ba tiếng “khi quãng vắng” , Tú Xương đã nói lên cả thời gian lẫn không gian heo hút, chứa đầy lo âu, nguy hiểm. Trong thơ Tú Xương, không phải là “con cò” mà là “thân cò” . Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Hai câu thơ tuy đối nhau về từ ngữ(khi quãng vắng/ buổi đò đông) nhưng lại tiếp nhau về ý nghĩ để làm nổi bật sự vất vả, gian truân của bà Tú: một mình đơn chiếc, tất tưởi trong công việc lại luôn có sự nguy hiểm rình rập. Hai câu thơ không chỉ nói lên thực cảnh của bà Tú mà nó còn cho ta thấy được thực tình của ông Tú qua tấm lòng cảm thông, xót thương da diết đối với vợ mình.
Nói đến thơ trào phúng trong thế kỉ XIX, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều nghĩ đến những vần thơ của Nguyễn Khuyến, Học Lạc, Tú Quỳ, Nhiêu Tâm,… Và Tú Xương (Trần Tế Xương) cũng là một trong số đó. Tuy tuổi đời ngắn ngủi nhưng Tú Xương đã để lại cho dời một sự nghiệp thơ ca bất tử. Ông sáng tác chủ yếu là thơ trữ tình và thơ trào phúng. Đặc biêt Tú Xương có cả một mảng thơ, văn tế, câu đối viết về vợ. Thương vợ là một trong những bài thơ hay nhất của Tú Xương khi viết về bà Tú.
Bà Tú – vợ của Tú Xương hơn tác giả một tuổi, vốn là con một trong gia đình nho giáo nên từ nhỏ đã không phải chịu cảnh chân lấm tay bùn. Trong bài Văn tế sống vợ Tú Xương từng viết : “Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo, rằng lùn”. Nhưng kể từ khi bà lấy Tú Xương lại phải chịu nhiều vất vả, gian truân, lặn lội buôn bán kiếm sống để nuôi chồng, nuôi con. Tuy nhiên cuộc đời bà lại có được tất cả tinh yêu thương, trân trọng từ ông Tú mà hiếm người phụ nữ trong Xã hội Phong kiến có được.
Tình thương vợ sâu nặng được tác giả thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả, gian truân và những đức tính cao đẹp của bà Tú. Trong bài thơ, bà Tú hiện ra rất chân thực với cuộc sống lam lũ, vất vả:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Ngay câu thơ đầu, tác giả dã nói nên hoàn cảnh nơi bà Tú buôn bán: mom sông. Câu thơ vào đề thật tự nhiên như một lời giới thiêu, lại như một bối cảnh bà Tú tảo tần tất bật ngược xuôi buôn bán. Sự vất vả, lam lũ của người phụ nữ ấy được gợi lên thông qua cách nói thời gian “quanh năm”. “quanh năm” nghĩa là suốt cả ngày, hết năm này đến, liên tiếp đến chóng mặt. Thời gian đã vậy nhưng nếu không gian mà thanh bình, thuận lợi thì cũng không đáng để nói. Thế nhưng bà Tú lại tất tả ngược xuôi buôn bán quanh năm ở chỗ “mom sông” – phần đất ở bờ sông nhô ra giữa dòng sông – nơi buôn bán vô cùng chênh vênh, nguy hiểm. Cái công việc nặng nề ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả đời, bởi nó chẳng làm cho bà khá hơn lên. Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà là “năm con với một chồng”, “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng ông chồng, là “một”, nhưng là chi phí bằng cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ, chưa nói đến khi đồng chè đồng rượu,… Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào, chiều chồng biết chừng nào!
Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.”
Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò- biểu tượng trong ca dao xưa để nói về bà Tú. Khi vận dụng hình ảnh, ngôn ngữ văn học dan gian, Tú Xương đã có những sáng tạo độc đáo. Nếu ca dao nói đên sự vất vả của người phụ nữ thương chồng là:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.”
thì Tú Xương nói đến sự lam lũ của vợ chân thực và sâu sắc hơn: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Như vậy, “con cò’ trong thơ của tác giả không chỉ xuất hiện giữa cái rợn ngợp của không gian mà còn có sự rợn ngợp của thời gian. Chỉ với ba tiếng “khi quãng vắng” , Tú Xương đã nói lên cả thời gian lẫn không gian heo hút, chứa đầy lo âu, nguy hiểm. Trong thơ Tú Xương, không phải là “con cò” mà là “thân cò” . Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Hai câu thơ tuy đối nhau về từ ngữ(khi quãng vắng/ buổi đò đông) nhưng lại tiếp nhau về ý nghĩ để làm nổi bật sự vất vả, gian truân của bà Tú: một mình đơn chiếc, tất tưởi trong công việc lại luôn có sự nguy hiểm rình rập. Hai câu thơ không chỉ nói lên thực cảnh của bà Tú mà nó còn cho ta thấy được thực tình của ông Tú qua tấm lòng cảm thông, xót thương da diết đối với vợ mình.