phân tích tinh thần thép của Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối

1 câu trả lời

Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối (Mở rộng) - Mẫu 1

Đọc tập “Ngục trung nhật ký”, Hoàng Trung Thông viết:

“Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”.

Thật vậy, "Ngục trung nhật ký" (NTNK) đã làm toát lên bức chân dung của một người tù tự do, một người tù mà không một nhà tù nào, một gông xiềng nào giam hãm được. Vì vậy, đọc thơ Bác, người yêu thơ vẫn nhận thấy bất cứ bài thơ nào, câu thơ nào cũng thấm đậm chất thép. Thép trong thơ Bác uyển chuyển, tinh vi, linh hoạt. Một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất chất thép trong thơ Người đó là bài “Chiều tối (Mộ)”:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

Đây là bài thơ thứ 31 nếu đặt trong logic của toàn bộ tập thơ gồm 135 bài kể cả 2 bản bổ sung. Bài thơ được Bác viết trong một cuộc chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bài thơ đã làm toát lên chất thép cao cường của người chiến sĩ cách mạng. Để thấy được chất thép trong tác phẩm này, đầu tiên ta cần phải hiểu nội hàm của chất thép. Trong bài thơ “Cảm tưởng đọc Thiên Gia Thi”, Người có viết:

"Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong"

Cần phải khẳng định chất thép trong thơ là một hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ. Nó là tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ Cộng sản; là lòng yêu nước già dặn, mãnh liệt, sôi nổi của một con người; thậm chí nó còn là thái độ ung dung tự tại của một tù nhân ở ngay trong tù ngục. Vì vậy, khi bộc lộ trong thơ, nó không thể là tiếng nói trần trụi của một ý chí. Nó phải chuyển hóa linh hoạt thành hình tượng thơ, thành tình cảm thơ vì thơ là sự kết hợp hài hòa giữa tình cảm, hình ảnh và lý trí. Nếu tình cảm là gốc rễ, lý trí là thân cành thì hình ảnh sẽ là hoa trái. Như vậy, đi tìm thép trong tập NTNK, nhất là trong bài thơ “Mộ” nói riêng, ta không thể đi tìm thứ thép lộ thiên mà phải tìm nó trong hình tượng thơ, trong tình cảm thơ. Chất thép càng chuyển hoá thành hình tượng, thành tình cảm sâu sắc bao nhiêu thì nó càng cao siêu, cao cường bấy nhiêu. Cao siêu nhất, cao cường nhất chính là ở điểm như Hoài Thanh đã nói: “Không phải có nói chuyện thép, lên giọng thép mới là có tinh thần thép.”

Chất thép trong bài thơ Mộ được thể hiện đầu tiên là ở lòng nhân đạo của người chiến sĩ Cộng sản. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt với 2 câu thơ đầu hiện lên là bức tranh thiên nhiên được Bác vẽ bằng tâm hồn của một thi sĩ lãng mạn thông qua những thi liệu, rất cổ điển. Đó là hình ảnh cánh chim và chòm mây trở đi trở lại nhiều trong thơ cổ trung đại. Nhưng cái hay ở đây là cánh chim trong thơ Người không chỉ đơn thuần là nhằm để điểm xuyết thời gian như trong thơ cổ điển, ví như bà huyện thanh quan trong “chiều hôm nhớ nhà” đã viết:

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Rặng liễu sương sa khách bước dồn”

Hay như trong ca dao có câu:

“Chim bay về núi tối rồi”

Ở đây, Bác đã nhìn thấu và bên trong sự vật hiện tượng để cảm nhận được cái sự mệt mỏi của cánh chim sau một ngày lam lũ kiếm sống. Điều này được thể hiện rõ khi Người đặt chữ “quyện” nghĩa là mệt mỏi lên đầu câu. Như vậy, Bác đã bước xa hơn Nguyễn Du trong kiệt tác truyện Kiều với hình ảnh:

“Chim hôm thoi thót về rừng
Đóa trà my đã ngậm trăng nửa vành”

Như vậy Bác đã nhìn thấu vào sự vật hiện tượng để thấy được những sự mệt mỏi của những vật tưởng như vô tri vô giác. Điều ấy có nghĩa là Mộ nói chung, cũng như câu khai đề nói riêng đã được viết lên bằng một trái tim vô cùng nhân đạo. Trong trái tim của Bác chất chứa biết bao nhiêu chỗ đứng, thân phận, cảnh ngộ và cả những vật vô tri vô giác như nhánh lúa nhành hoa mà như Tố Hữu đã nói là:

“Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”

Mà ở chỗ nào tình cảm sâu sắc nhất, nơi ấy chất thép được bộc lộ cao nhất. Đúng như Hoàng trung Thông đã nói:

“Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”

Mặt khác, thép ở đây còn là tinh thần chiến đấu, là lòng yêu nước già dặn, mãnh liệt, sôi nổi của một con người. Ý tưởng đó cũng được thể hiện ngay ở câu thơ khai đề. Cánh chim trong câu thơ của Người đang quy lâm để tìm nơi trú ngụ. Rõ ràng ở đây nó không còn như trong thơ của Lí Bạch:

“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”

Cánh chim trong thơ của Lí Bạch bay về nơi vô tận thì cánh chim trong thơ Người lại đang quy lâm để tầm túc thụ. Ta không loại trừ hình ảnh cánh chim ấy là biểu hiện cho khát vọng tự do, khát vọng đoàn tụ trong tâm hồn Bác bởi Maxim Gorky đã nói: “Văn học là nhân học.” Văn học từ muôn đời xưa cho đến mãi về sau bao giờ cũng viết về con người. Đang nơi đất khách quê người, Bác biết đi đâu về đâu khi phía trước chỉ là một nhà lao và điểm xuất phát cũng chỉ là một nhà tù mà thôi. Nỗi nhớ nước đã từng làm Bác bị ốm nặng:

“Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh
Nội thương nước Việt cảnh lầm than”

Thậm chí nỗi nhớ nước thương dân còn làm cho Người không ngủ được:

“Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”

Như vậy rõ ràng cánh chim ấy là khát vọng đoàn tụ, là tình yêu quê hương đất nước mà lòng yêu quê hương đất nước già dặn sôi nổi ấy chính là biểu hiện chất thép trong bài thơ “Mộ” nói riêng, của cả tập thơ “NTNK” nói chung.

Không chỉ dừng lại ở đó, đến câu thơ thứ 2, Bác gợi lên không gian của cuộc giải tù:

“Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Đó là một bức họa mà mỗi một ý thơ, một lời thơ như một nét khắc nét chạm. Nền của bức pic ấy là bầu trời cao rộng. Điểm xuyết vào đó là chòm mây cô đơn, cô độc, cô lẻ đang trôi chậm chậm giữa miền sơn cước. Bức tranh này được vẽ bằng tâm hồn của một tù nhân cổ đeo gông, chân vướng xiềng. Vậy nhưng ở đây, tâm hồn Người vẫn bỏ ngỏ, thơ của Người vẫn ra đời như khi đang ở thể trạng tự do vậy. Điều đó có nghĩa ở Người có một tinh thần thép cao cường, một tinh thần vượt ngục mà không một nhà tù nào, một gông xiềng nào giam hãm được. Chính từ địa hạt của tự do ấy, Bác đã vẽ lên trong cuộc chuyển lao một bức tranh thiên nhiên rất đẹp. Nhìn vào bức tranh ấy, không những ta thấy được tâm trạng buồn, nỗi nhớ nhà, nhớ nước, biểu hiện tình yêu nước của Hồ Chí Minh mà còn thấy một sự bất bình tố cáo chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch vì ở câu thơ này, Bác đã làm toát lên thể trạng mệt mỏi của tù nhân. Nhà tù Tưởng Giới Thạch áp giải tù nhân mọi lúc mọi nơi, thậm chí cảnh giải lao còn làm Bác khó chịu, bất bình:

“Đã giải đi Nam Ninh
Lại giải về Vũ Minh
Giải đi quanh quẹo mãi
Kéo dài cả hành trình
Bất bình!”

Giải từ sáng sớm: “Gà gáy một lần đêm chửa tan”, lại phải đi bộ năm mươi ba cây số với chỉ lưng bát cháo tù cầm hơi:

“Năm mươi ba cây số một ngày
Áo mũ dầm mưa rách hết giày”

Giờ đây là thời điểm “Mộ”, nghĩa là chiều tối. Sức Người đã mệt. Sự mệt mỏi quyện vào từng hình ảnh thơ, điệp vào 2 chữ “mạn mạn” trong tiếng Hán Việt nghĩa là “chậm chậm” với 2 dấu nặng đi liền kề để miêu tả bước đi nặng nhọc của tù nhân sau một ngày bị áp giải. Như vậy ở đây, Bác tố cáo nhà tù bất nhân đã tước mọi quyền của con người và nó cũng đã bộc lộ rõ lòng yêu nước, cái thái độ bất bình. Tất cả đó chính là biểu hiện của chất thép trong bài thơ “Mộ”

Cứ như thế, Bác viết bài thơ “Mộ” nói riêng, cho tập “NTNK” nói chung bằng một trái tim mà Tố Hữu đã từng thốt lên rằng:

“Bác ơi tim bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người”

Toàn bộ trái tim ấy được thể hiện rõ ở trong 2 câu thơ cuối. Khi ánh nắng tàn phai, chim trời tắt bóng cũng là lúc bầu trời buông xuống theo đúng thời gian. Cái nhìn bao quát không gian “Độ thiện không” giờ đây lại thu vào để đặc tả một xóm núi đó là sơn thôn. Nổi lên trên xóm núi ấy là hình ảnh người thiếu nữ đang ở độ đầu xuân của tuổi trẻ lại đang phải lao động vất vả trong công việc của nhà nông:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

Không chỉ đến đây ta mới thấy xuất hiện hình tượng người thiếu nữ trong thơ. Nếu trong thơ cổ trung đại, người thiếu nữ là trung tâm của cái đẹp; trong thơ lãng mạn, họ là đối tượng để chuyển tải cái tôi cô đơn mà hơn một lần Xuân Diệu viết:

“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”

Người thiếu nữ trong thơ Bác lại đang xay ngô: “ma bao túc”. Vì vậy, câu thơ ánh lên giá trị, vẻ đẹp của con người trong lao động. Không chỉ dừng lại ở đó bởi thơ hay ý tại ngôn ngoại, lời ít ý nhiều. Chất thép trong câu thơ lại được biểu hiện một lần nữa thông qua tình thương của Bác đối với người thiếu nữ đang xay ngô trong thời điểm lẽ ra phải được nghỉ ngơi.

Cần phải khẳng định cái lòng nhân đạo ấy chính là sức mạnh của Bác. Chẳng thế mà nhận định về Bác Hồ, mọi ý kiến trong và ngoài nước đều thống nhất với nhau ở một điểm: ngọn nguồn sức mạnh của Hồ Chí Minh nằm ngay trong trái tim của Người. Ở đây, cái tình yêu thương ấy, cái lòng nhân đạo của Bác đã vượt qua lĩnh vực của một quốc gia, vượt qua cả hình ảnh:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng”

Bác thương cho tất cả những con người Bác gặp trong lao tù. Từ một cháu bé trong nhà lao Tân Dương, thử hỏi trong khám lạnh nhà tù, biết bao nhiêu tù nhân nghe thấy tiếng khóc của cháu bé vừa nửa tuổi mà rung lên thành hồn thơ như Nguyễn Ái Quốc:

“Oa… Oa… Oa
Cha trốn không đi lính nước nhà
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi
Phải theo mẹ đến ở nhà pha”

Bác dành tình thương cho những con người Bác gặp trên con đường chuyển lao. Đó có thể là một phu làm đường:

“Dãi nắng dầm mưa chẳng nghỉ ngơi
Phu đường vất vả lắm ai ơi
Ngựa xe hành khách đường qua lại
Biết cảm ơn anh được mấy người

Đến đây, Người lại dành tình thương cho người thiếu nữ đang độ đầu xanh của tuổi trẻ lao động vất vả trong thời điểm nghỉ ngơi ấy là chiều tối. Đằng sau tình thương ấy, ta lại thấy một nỗi bất bình khi Người sử dụng nghệ thuật đảo ngữ. Ở cuối câu thơ thứ ba, ta bắt gặp “ma bao túc”. Ở đầu câu 4 Bác đảo lại thành “bao túc ma”. Chính nghệ thuật đảo ngữ ấy đã làm 2 câu thơ bắt vòng với nhau. Nó không chỉ đơn thuần là vòng của chiếc cối xay ngô. Nhìn sâu hơn, nó là vòng đời, vòng người của những kiếp đời luẩn quẩn sống dưới chế độ Tưởng Giới Thạch. Như vậy rõ ràng, viết bài thơ này, Người đã đứng trên quyền con người để tố cáo cái chế độ bất nhân của Tưởng Giới Thạch.

Bài thơ còn nổi bật ở một điểm đó là có lẽ cái sức mạnh của bài thơ lại được tập trung ở hình ảnh “lô dĩ hồng”. một trong những đặc điểm của thơ Bác đó là thơ Người luôn luôn vận động, hướng vận động đi từ hiện tại tới tương lai, từ bóng tối để hướng đến ánh sáng. “Mộ” không nằm ngoại lệ. “Mộ” có nghĩa là chiều tối, ngỡ tưởng sẽ kết thúc bằng một màn đêm đen đặc. Nhưng không, với cái nhìn của người chiến sĩ, Bác đã kết thúc bài thơ của mình bằng màu hồng. Vì vậy, có lẽ chất thép của bài thơ dồn đổ mạnh nhất đo là ở chữ hồng ở bài thơ nà. Chữ “hồng” ở đây là hình ảnh đa nghĩa. Ta không nên hiểu nó theo một nghĩa đơn nào mà nó là một hình ảnh đa nghĩa. Hiểu theo nghĩa tường minh, đây là màu hồng của lò than. Lò than ấy có lẽ đã hồng từ lúc buổi chiều. Điều này thể hiện rõ qua sắc thái của chữ “dĩ”. Trời cứ tối dần, ma lực của màu hồng càng phát sáng. Tuy nhiên ta phải hiểu chữ hồng trong câu thơ này không nên theo nghĩa tường minh mà phải theo nghĩa hàm ẩn. Hồng ở đây chính là màu hồng trong tâm tưởng của Bác. Đó là màu hồng của cuộc cách mạng đang đến gần. Dường như Người nhìn thấy cuộc Cách mạng tháng Tám của đồng bào ta đang đến gần. Nhận định về vấn đề này, một nhà phê bình văn học khẳng định: “Thơ Bác, thơ người chiến sĩ cộng sản tay nắm chắc chân lý, mắt nhìn thấu cõi tương lai.” Chữ “hồng” ấy ta cũng không loại trừ đó là tình thương, là lòng nhân đạo của Hồ Chí Minh. Đây chính là màu hồng của chất thép bởi màu hồng ấy chính là Bác đi trong đêm tối, đi trong XH hội tăm tối và nó càng phát sáng. Như vậy, trái tim nhân đạo của Người bộc lộ rõ nét hơn nhiều. Có thể nói, màu hồng ấy chính là bản lĩnh của Hồ Chí Minh. Nhận định về vấn đề này, Chế Lan Viên viết:

“Người ghét sự chói chang, nhưng chính Người là nguồn ấm nóng
Của vầng hồng đánh đẹp bóng đêm lui”

Như vậy, một mình chữ “hồng” này đã đẩy lùi bóng đêm lui, đã cân bằng 27 âm tiết còn lại của một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Rõ ràng chữ hồng ở đây là nhãn tự của bài thơ. Một lần nữa, bài thơ lại toát lên chất thép ở phong thái ung dung tự tại của tù nhân.

Đọc bài thơ “Mộ”, ta không thấy những lời thơ than vãn, mặc dù Bác làm thơ trong hoàn cảnh hoàn toàn phản thơ. Vì sao lại có được điều ấy? Bởi Bác có một tinh thần thép, một tinh thần vượt ngục. Không một nhà tù nào giam được tinh thần của Bác. Bài thơ không hề có chữ thép, không hề lên giọng thép nhưng lại ngập tràn chất thép. Để kết thúc bài viết của mình nên chăng ta mượn lại lời của nhà phê bình Hoài Thanh: “Khi Bác nói trong thơ có thép, ta phải hiểu thế nào là thép ở trong thơ. Có lẽ phải hiểu linh hoạt mới đúng. Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép mới có tinh thần thép.”

Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối - Mẫu 2

Đúng là trong bài "Đọc thơ Bác", nhà thơ Hoàng Trung Thông đã từng cảm nhận:

"Vần thơ của Bác, vần thơ thép
Mà vẫn mênh mang bát ngát tình".

Vậy thì theo Hoàng Trung Thông, thơ Hồ Chí Minh có thể được cô đọng lại trong hai chữ: "thép" và "tình". Trong Chiều tối, cái chất tình và chất thép ấy thể hiện như thế nào?

Trước hết cần hiểu hai khái niệm trên nghĩa là gì? thép là sự ẩn dụ cho lòng kiên cường, sự bất khuất, cứng cỏi, không dễ khuất phục. Đó là biểu hiện của tinh thần bền bỉ, ý chí vững vàng. tình là sự rung cảm, là cảm xúc. Nó xuất phát từ rung động của trái tim luôn nóng hổi, sôi nổi nhiệt tâm. Hai khái niệm này có vẻ mâu thuẫn. Mâu thuẫn, mà sao lại tồn tại chung đụng với nhau như thế? Lại còn là nét tiêu biểu, đặc trưng cho phong cách của một nhà thơ lớn như Hồ Chí Minh?

Thật ra thì, chất thép và chất tình chính là hai mặt cùng tồn tại và làm nền tảng cho nhau, tạo nên tính cách đáng quí của Hồ Chí Minh và trở thành nét đặc biệt trong sáng tác của ông. Tinh thần bền bỉ của tác giả thể hiện ở chỗ, trong cái khó, cái khổ, ông vẫn không hề nao núng; bị gông cùm xiềng xích, ông vẫn can đảm đối diện; nguy hiểm cận kề, ông vẫn ung dung tự tại... Điều này được chính Hồ Chí Minh phát biểu:

"Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao".

Trong Chiều tối, điều này thể hiện trong cái cách mà nhà thơ phóng tầm mắt ra thiên nhiên bao la, nhìn cánh chim chiều, nhìn chòm mây trôi, không màng tới cái hoàn cảnh mình đang bị giải tù. Chẳng ai miêu tả, nhưng ta phải hiểu là Hồ Chí Minh đang "cổ đeo gông, chân vướng xiềng". Trong cảnh đó, liệu chúng ta đủ thanh thản để làm thơ không? Thế nhưng, Hồ Chí Minh làm thơ được, mà lại còn viết rất hay. Hơn nữa, trong thơ mình, Hồ Chí Minh còn thể hiện tinh thần lạc quan đáng kinh ngạc. Nói về buổi chiều tối mà chẳng dùng một chữ tối nào, nhà thơ dùng màu hồng của lửa than để làm dấu hiệu nhận biết cho bóng tối. Nghĩa là lúc nào cũng vậy, đôi mắt ấy luôn hướng về ánh sáng, luôn đi tìm ánh sáng, dù đó là thứ ánh sáng nhỏ nhoi. Nhưng sự sáng nhỏ nhoi ấy có tác dụng nâng tinh thần người ta lên để khỏi bị nhấn chìm vào bóng tối bao trùm. Làm được như thế, hẳn phải có tinh thần thép, tinh thần tự do, tinh thần kiên cường. Đó chính là chất thép đấy thôi. Hồ Chí Minh không bao giờ chịu khuất phục, là nhờ ở tinh thần cứng cỏi ấy.

Nhưng Hồ Chí Minh không phải một vị tiên, không phải một kẻ chẳng biết đến đau đớn trần tục. Ông là một con người, biết vui buồn, sướng khổ. Là một con người nên trong ông, không thể không tồn tại chữ tình. Tuy vậy, cái tình trong thơ Hồ Chí Minh không gói gọn trong tình cảm cá nhân.

"Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa"

Tố Hữu từng khóc Hồ Chí Minh bằng những vần thơ như thế. tình thương của Hồ Chí Minh trải theo chiều rộng, thấm vào chiều sâu, vươn đến tầm xa. Ông thương yêu nhiều, tình thương yêu đó dành cho thiên nhiên, cho quê hương, cho con người, cho những người đồng khổ. Riêng trong Chiều tối, tình yêu thiên nhiên thể hiện khá rõ (điều này không cần nhắc lại, vì hẳn là giáo viên nào cũng đã phân tích kĩ cho các em về tình yêu thiên nhiên). Nhưng bên cạnh tình yêu thiên nhiên đó, nổi bật hơn lại là tình yêu với con người, đặc biệt là người lao động. Mà ở đây lại là một người lao động của xứ người - xứ Trung Hoa. Đối với Hồ Chí Minh, đã là giai cấp lao động, thì dù ở đâu cũng đáng yêu đáng quí. tình thương của nhà thơ không có sự ràng buột về mặt địa lí. Đó được gọi là "tình hữu ái giai cấp".

Chất tình nhờ chất thép mà thêm nồng hậu. Nhờ tinh thần vững vàng nên trái tim luôn rung cảm sâu sắc với nhiều kiếp người. Chất thép cũng nhờ chất tình mà được nâng lên. Trái tim chan chứa yêu thương và tấm lòng nghĩ về cuộc đời đã nuôi dưỡng và củng cố cho Hồ Chí Minh đương đầu với mọi thử thách và bền bỉ gìn giữ niềm lạc quan cách mạng. Đấy chính là nét đẹp trong bài Chiều tối, trong tập Nhật kí trong tù, trong sự nghiệp văn học, sự nghiệp cách mạng và trong bản thân con người Hồ Chí Minh.

Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối - Mẫu 3

“Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”

Đất nước Việt Nam rất tự hào về Bác Hồ bởi Người chính là sự kết tinh những tinh hoa truyền thống của bản sắc dân tộc. Nhân dân ta đã thấy ở Bác Hồ con người Việt Nam đẹp nhất và nhân dân thế giới gắn liền tên nước Việt Nam với tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việt Nam – Hồ Chí Minh. Thơ Bác luôn mang đậm chất tình và chất thép giống như Hoàng Trung Thông đã từng viết:

"Vần thơ của Bác, vần thơ thép
Mà vẫn mênh mang bát ngát tình".

(Đọc thơ Bác)

Chất thép cùng chất tình trong bài thơ Chiều tối (Mộ) sẽ là bài thơ cụ thể cho ta thấy được điều đó.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ, là người cha già của dân tộc. Trong những năm tháng của đời mình, Bác đã bôn ba khắp năm châu bốn bể tìm đường đi và tương lai cho đất nước, giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Người đã dẫn dắt dân tộc ta thoát khỏi đói nghèo, đi lên xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp như ngày hôm nay. Bên cạnh con đường cách mạng lỗi lạc, Bác còn là một nhà thơ lỗi lạc, một thi nhân tài hoa bậc nhất.

Sự nghiệp văn chương của Người gắn liền với sự nghiệp của Cách mạng, với nhân dân. “Nhật ký trong tù” là tập thơ tiêu biểu, trong đó bài thơ “Chiều tối” là bài thơ nổi bật lên chất thép và chất tình trong thơ Hồ Chí Minh.

“Chiều tối” (Mộ) là nhật kí của một đoạn hành trình đầy vất vả vào buổi chiều muộn - trong chặng ải cuối cùng đấy sự mệt mỏi của người trong tù khi đã đi qua một ngày dài gian lao, trên con đường chuyển lao qua các tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc.

Đầu tiên, chất thép trong bài thơ “Chiều tối” là ý chí kiên cường, bất khuất, sự tự tin và niềm kiêu hãnh, luôn lạc quan tin tưởng vào mục tiêu của người chiến sĩ cách mạng. Còn chất tình trong “Chiều tối” là những cảm xúc, tình cảm, rung động của thi nhân trước cái đẹp của tạo vật, của tình người. Chất thép và chất tình trong bài thơ “Chiều tối” được thể hiện hài hòa, đan xen vào trong từng câu, từng chữ của bài.

Ở trong hai câu đầu tiên, nghiêng nhiều hơn về chất tình với phong cảnh thiên nhiên lúc chiều tà trong con mắt người chiến sĩ - thi sĩ sau một ngày giải lao đầy mệt mỏi:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

(Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.)

Bức tranh chiều tối được hiện lên thông qua hai hình ảnh: cánh chim và chòm mây. Cánh chim vốn là thi liệu quen thuộc trong thơ ca ngày xưa. Đến đây ta bỗng nhớ đến hình ảnh cánh chim: “Chim hôm thoi thót về rừng” (Nguyễn Du) hay “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan).

Trong thơ cổ, những cánh chim gợi về nỗi cô đơn, nỗi buồn, về một một kỉ niệm nào đó. Thế nhưng trong “Chiều tối”, cánh chim của Hồ Chí Minh xuất hiện trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác đó là “cánh chim mỏi”: những chú chim sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi sẽ trở về tìm chốn nghỉ ngơi.

Rõ ràng những cánh chim này bay có phương hướng, có mục đích và có chốn để về chứ không hề lênh đênh vô định giống như những cánh chim trong thơ cổ. Những cánh chim ấy gợi liên tưởng về sự tương phản với hoàn cảnh của Bác vào thời điểm lúc bấy giờ.

Chòm mây trên trời thì cô đơn, lững lờ trôi một mình giữa không gian mênh mông, rộng lớn. Phải chăng Bác Hồ đã dùng hình ảnh của chòm mây để nói lên tình cảnh, cảm xúc của mình lúc bấy giờ?

Bức tranh thiên nhiên ở đây không chỉ dừng lại ở miêu tả bề ngoài mà nó còn là bề sâu, là cảm xúc của người tù đối với thiên nhiên. Bằng những quan sát hết sức tinh tế và tỉ mỉ, Bác đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên với những cảnh vật thật có hồn, vẽ nên một không gian buổi chiều mơ màng và thanh bình.

Đằng sau cảnh thiên nhiên đẹp là nỗi cô đơn, mệt mỏi của người tù nhân khi phải một mình trải qua một hành trình dài từ nhà lao này đến nhà lao khác. Thế nhưng đằng sau nỗi cô đơn ấy còn là một bản lĩnh kiên cường, sắt đá, hi vọng vào một tương lai tươi sáng của người chiến sĩ Cách mạng.

Chất thép và chất tình trong bài thơ chiều tối còn thể hiện qua hai câu thơ cuối của bài thơ:

Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.

(Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.)

Nếu như trong văn học trung đại, người con gái tài sắc vẹn toàn, đẹp nghiêng nước nghiêng thành nhưng yếu đuối cùng với số phận lận đận, lênh đênh, chìm nổi. Nhắc đến người con gái đẹp trong văn học trung đại, ta luôn nghĩ ngay đến những hình ảnh phảng phất nỗi buồn và số phận “bảy nổi ba chìm” như Vương Xương Linh đời Đường từng viết Khuê oán:

“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.”

Dịch thơ:

“Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.”

Hay Hồ Xuân Hương viết:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.

(Bánh trôi nước)

Trong thơ Bác là hình ảnh người con gái hiện lên quá đỗi giản dị, hết sức bình thường, công việc tuy vất vả nhưng vẫn rất đáng yêu và đáng trân trọng. Hình ảnh “cô em” nổi bật trước thiên nhiên, con người đang làm chủ cuộc sống của mình với sự trẻ trung và đầy sức khỏe, làm việc hăng say, chăm chỉ.

Con người như hòa vào cùng thiên nhiên, người với thiên nhiên quyện vào nhau. “Ma bao túc….bao túc ma hoàn”, cách sử dụng điệp ngữ vòng, Bác đã tạo nên sự nhịp nhàng trong vòng quay công việc, liên tục và nhịp nhàng. Hình ảnh này đã làm cho buổi chiều cô quạnh một bức tranh thơ sức sống và niềm vui lan tỏa.

Câu thơ cuối là sự kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và lãng mạn. Tính cổ điển được thể hiện qua bút pháp dùng ánh sáng để nói đến bóng tối. Trời đất ngoài kia cao rộng, bao la rộng lớn, dần thu hẹp lại bên cạnh không gian sinh hoạt gia đình thông qua hình ảnh bếp lửa.

Cả câu thơ chỉ với một từ “hồng” - từ được coi là nhãn tự của bài thơ cùng với bút pháp điểm xuyết đã khiến cho bao nhiêu cảm xúc bị dồn nén, chất chứa bấy lâu được bung toả. Chữ “hồng” – là ánh sáng của niềm tin, của sự hy vọng, là ngọn lửa bừng sáng xua tan đêm đen, là hơi ấm xua đi lạnh lẽo và cô độc.

Chữ “hồng” – là ánh sáng của ngọn lửa niềm vui, là niềm lạc quan xua tan nỗi buồn và mệt nhọc của thực tại. Ta cứ ngỡ như ngọn lửa đang hắt lên khuôn mặt của cô gái như tô vẽ thêm cho khuôn mặt cô càng thêm rạng rỡ.

Tứ thơ chuyển đổi chính là nhờ một chữ “hồng” làm sáng cả bài thơ, đem ấm nồng và sức sống đến cho tác phẩm như Hoàng Trung Thông đã nói: “Một chữ hồng mà đủ sức để cân lại với 27 chữ thơ kia, nó làm sáng cả câu thơ, cả bài thơ. Nó là nhãn tự (chữ mắt) của bài thơ”.

Những nhãn tự đó do đâu mà ra? Do đâu mà chỉ với một chữ “hồng” đã làm cho người đọc cảm nhận được cái “thần” của bài thơ, là linh hồn của bài thơ tứ tuyệt? Phải chăng là trong lòng tác giả cũng có một ngọn lửa hồng rực sáng như vậy? Đó là ngọn lửa của tình yêu tha thiết cuộc sống, yêu con người mà không bao giờ tắt trong lòng thi nhân Hồ Chí Minh.

Do ở trong cảnh giải tù đày, Bác không còn niềm vui cho riêng mình, chỉ có những nỗi đau, nỗi buồn, sự lo lắng cho đất nước, nhưng chính lúc Người đi qua hẻm núi và chứng kiến cảnh cô gái xay ngô tối, thì niềm vui xuất hiện và tứ thơ hiện lên thành một ngọn lửa hồng rực cháy, cháy rực trong người thi sĩ. Đó là niềm vui cho người lao động.

Qua đó thể hiện sự trân trọng và nâng niu đối với hạnh phúc thật bình thường, là ước mơ nhỏ nhoi của người lao động xóm núi. Đúng như Hoài Thanh đã viết: “Những cảnh tượng ấy biết bao người đã đi qua, nhưng nếu không có một tấm lòng nâng niu trân trọng thì cũng không thể nào ghi lại được trong thơ”

Thành công của bài thơ chính là yếu tố cổ điển kết hợp với hiện đại, giữa chất thép và chất tình của người tù cách mạng. Bài thơ là tình tình cảm nhân ái, bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Dù ở trong hoàn cảnh tù đày nơi xứ người nhưng Bác vẫn vượt lên tất cả mọi khổ đau, đọa đày về thể xác để đưa đến cho bạn đọc những vần thơ tuyệt bút.

Qua bài thơ ta càng hiểu và yêu hơn vị lãnh tụ vĩ đại, Người cha già của cả dân tộc. Xin mượn bốn câu thơ của Tố Hữu để thay cho lời kết:

“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”

Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối - Mẫu 4

Chiều tối là bài thơ nổi bật cho phong cách thơ Hồ Chí Minh, đặc biệt quan trọng thể hiện được tư tưởng sáng tác cũng như chất thơ độc đáo của tác giả. Chính chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối đã cho thấy một tinh thần thép của một người chiến sĩ và một tâm hồn nhạy cảm của người thi sĩ ở Hồ Chí Minh.

Chiều tối (Mộ) gồm có bốn câu thơ, được chia làm hai phần, hai câu đầu thể hiện khung cảnh thiên nhiên núi rừng đầy hiu quanh, hai câu cuối cho thấy tinh thần sáng sủa của người chiến sĩ. Hồ Chí Minh đã sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, những câu thơ đầu đã cho thấy một ánh nhìn xa xăm cùng với khát vọng tự do mãnh liệt được như cánh chim trời, hay sự tha thiết với cái vẻ nhẹ nhàng tự do của chòm mây.

Diễn giải theo ý nghĩa khác, chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối được thể hiện hài hòa đan cài trong từng câu thơ. Nhìn chung, hai câu thơ đầu thiên về chữ tình với phong cảnh thiên nhiên lúc chiều tà trong con mắt người chiến sĩ – thi sĩ sau một ngày bị giải lao mệt mỏi.

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Ý nghĩa tả thực trong câu thơ đầu là hình ảnh một cánh chim cuối chiều mệt mỏi với hướng bay về rừng nhằm mục tiêu tìm chốn ngủ sau một ngày sải cánh. Một bức tranh thiên nhiên cuối ngày như hiện lên trước mắt người đọc chỉ với vài nét phác họa tài tình của nhà thơ. Một buổi chiều tối êm đềm đầy tĩnh lặng là chất tình trong tác phẩm này.

Chính cái buổi chiều tà cuối ngày ấy lại khiến tâm trạng con người đang nhớ nhung quê nhà lại càng trở nên khắc khoải hơn. Đó là cảm giác nhớ người thân, nhớ hình bóng tổ quốc, nhớ khói lam chiều vương vấn… Một chút lạc lõng ấy lại càng làm nổi bật lên chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối.

Chỉ với hai câu thơ nhẹ nhàng, ngắn gọn, giản đơn ấy lại chứa đựng một nỗi lòng thiết tha với quê nhà. Cái khát khao được tung bay, được sải cánh như chim trời, được nhẹ nhàng như đám mây kia. Đơn giản qua hai dòng thơ này, Hồ Chí Minh đã khiến người đọc cảm nhận được cảnh chiều tà lặng lẽ, u buồn nơi đất khách cùng với hình ảnh đơn độc, lạc lõng, xiềng xích của người chí sĩ giữa trời đất chiều tà mênh mông hiu quạnh. Thông qua đó, nhà thơ cũng thể hiện khát khao tự do thông qua hình ảnh cánh chim trời và đám mây giữa tầng không.

Chất thép và chất tình trong bài thơ Việt Bắc tiếp tục được thể hiện ở hai câu thơ cuối. Tất cả chúng ta thấy chất tình rất nên thơ từ hình ảnh giản đơn của con người:

Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã ửng hồng”

Cô gái xóm núi hiện lên như điểm nhấn làm tỏa sáng cả bức tranh thiên nhiên chiều tà. Đó là hình ảnh hài hòa, là sự việc gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Chính cái sự lãng mạn, thơ mộng này của cô em gái say than đã chứng tỏ chất tình chất thơ trong tác phẩm. Sự chăm chỉ, mải miết của cô gái xay ngô như đang gợi nên vẻ đẹp lao động của chính con người Việt Nam.

Có thể thấy, trong chiều tối một bức tranh chiều tà u buồn tĩnh lặng hiện lên cùng với điểm sáng từ hình ảnh cô thôn nữ xóm núi đã khiến bài thơ mang vẻ đẹp lãng mạn đầy chất tình.

Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối là nội dung độc đáo trong tác phẩm này. Bên cạnh chất tình, tất cả chúng ta còn cảm nhận được chất thép đầy rắn rỏi mạnh mẽ của một người chiến sĩ. Giữa cái khung cảnh chiều tà lặng lẽ u buồn ấy, người chiến sĩ vẫn không hề cảm thấy tẻ nhạt mà vẫn ấm lòng với một khát khao tự do, một ước vọng mạnh mẽ được giải phóng như cánh chim và đám mây đó.

Hai câu thơ cuối bài thể hiện chất thép thâm thúy và đậm nét hơn hết. Cô gái miền sơn cước trong sự lao động chăm chỉ mê say đã cho thấy tinh thần thép trong thơ của Hồ Chí Minh. Chỉ với tính từ “hồng” đứng cuối câu mà nhà thơ như xóa tan đi mọi sự mỏi mệt, chỉ còn sót lại tinh thần sáng sủa, sự hân hoan hướng về phía ánh sáng.

Màu hồng của lò than, từ hình ảnh cô gái lao động đó là niềm tin, là sự việc sắt đá trong tư tưởng người chiến sĩ, và chủng đó là chất thép trong bài thơ này. Quả thật, chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối được hòa quyện thật tinh tế. Cô gái xay ngô miệt mài bên ánh lửa hồng không chỉ thể hiện tư tưởng của Bác bỏ luôn rực cháy mà còn cho thấy cái tình mênh mông, bát ngát mà Hồ Chí Minh đã giành cho con người và cảnh vật.

Xuất hiện nổi bật trong bức tranh Chiều tối đó là cô gái sơn cước đang xay ngô với một vẻ khỏe khoắn của con người lao động. Đây là một bước phát triển trong chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối và cũng của chính tác giả. Nếu như trong hai câu thơ đầu, thiên nhiên hiện lên vào trạng thái nghỉ ngơi thì hình ảnh con người gợi lên nhịp sống mạnh mẽ, dẻo dai và sinh động. Phải chăng lò than rực hồng của người thôn nữ ấy đã nhóm lên trong đếm tối niềm sự sung sướng, sự sáng sủa xua đi cái lạnh lẽo trong trái tim người tù xa nhà.

Chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối còn được thể hiện ở tinh thần tân tiến trong hai câu thơ cuối bài. Lúc này, hình tượng thơ vận động tốt với sự kết thúc màu hồng sáng sủa của lò than. Và quan trọng hơn hết, đằng sau bức tranh ấy đó là tâm hồn của một thi sĩ, một tinh thần sáng sủa của người chiến sĩ cộng sản luôn hướng về cuộc sống với việc yêu đời và đầy tin tưởng dù cho tuyến phố đang lựa chọn chứa nhiều chông gai và khó khăn.

Tinh thần chiến sĩ bình tĩnh, giữ thế chủ động trước gian khổ cũng như biết vượt lên trên mọi hoàn cảnh đó là chất thép trong bài thơ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông từng viết về thơ Bác bỏ “Vần thơ của Bác bỏ vần thơ thép/Mà vẫn mênh mông bát ngát tình…”

Câu hỏi trong lớp Xem thêm