Phân tích hình ảnh người nghĩa sĩ Cần Giuộc trong 15 câu đầu bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)
2 câu trả lời
** Bạn tham khảo dàn ý này nhé **
A. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu hình ảnh người nghĩa sĩ Cần Giuộc
- Dẫn dắt vấn đề
B. Thân bài
1. Hoàn cảnh của nước ta lúc bấy giờ
- Thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định (1859)
- Phong trào vũ trang kháng Pháp bùng lên mạnh mẽ (Trương Định).
2. Nguồn gốc và đặc điểm của những người nông dân nghĩa sĩ
- Họ vốn xuất thân là những người nông dân lam lũ.
- Người nông dân Nam Bộ nghèo khó, “côi cút làm ăn”sống đời thầm lặng, cơ cực ở thôn ấp.
- Lòng căm thù, ghét cay ghét đắng trước cảnh kẻ thù xâm chiếm đất nước ta.
- Họ không hề biết tới việc quân việc lính hay chiến trận đao binh.
3. Tinh thần chiến đấu
- Sự hăm hở, hào hùng trong cuộc chiến đánh Tây: Tuy họ không có kĩ thuật, không có võ nghệ và không được tập dượt nhưng họ lại rất chủ động.
- Tinh thần chiến đấu dũng cảm chống quân thù.
C. Kết bài
- Đánh giá chung
- Suy nghĩ của bản thân
** Bài viết tham khảo
Nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu với bài " Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" đã thể hiện cao độ nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước thương dân của ông. Với lòng cảm thương và khâm phục chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một tượng đài nghệ thuật bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử. Trong đó 15 câu đầu trong bài văn tế hình ảnh người nghĩa sĩ hiện lên với vẻ mộc mạc, chân chất những vẫn hiện lên với lòng cảm thù và tình thần chiến đấu dũng cảm.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công... Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên chiến đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Nhiều nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài ``Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc``, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “Tác phẩm nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc.
Mở đầu bài văn tế là hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” có ý nghĩa là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương .
Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại để giành lại nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Hình ảnh chính của bài Văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần cù và chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:
“Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó"
"Côi cút làm ăn" có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.Dù mệt mỏi hay vất vả thì họ vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu đựnng một mình mà chẳng nói với ai .“Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó" đã hiện lên đầy đủ một vòng đời không lối thoát của người nông dân Việt, người "dân ấp dân lân" Nam Bộ. Bắt đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó.Họ là những người nông dân mà quanh năm chỉ biết làm lụng, chưa hề biết đến cái gì gọi là cung, ngựa.
"Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn ấy đã đứng lên tình nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi.
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”,chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Trong tác bài Văn Tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược.Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải”, vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
Bài Văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.”
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”. Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất của các nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.Ông cũng thể hiện rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân.Từ trước đến nay, đây là tác phẩm đầu tiên có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân.
Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" khẳng định, tấm lòng yêu thương dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu.“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững chắc của quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc mà đối với họ "nó" rất quan trọng trong cuộc đời.Nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc chính là tấm gương về tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc để cho các thế hệ đi sau khi đọc được bài văn Tế này mà noi theo để xây dựng đất nước càng ngày giàu mạnh hơn.
I, MB: Rất nhiều những người anh hùng đã được ghi tên trong các tác phẩm văn học. Đa phần họ đều là những người có tên tuổi. Nhưng có một nhà thơ đã ghi danh những người anh hùng bình dị - những người nông dân yêu nước trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Đó là Nguyễn Đình Chiểu với tác phẩm ‘ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. 15 câu đầu bài đã dựng lên hình ảnh những người nông dân
II, TB
1, Gioi thiệu chung
Hoàn cảnh sáng tác:Viết theo yêu cầu của Đỗ Quang tuần phủ Gia Định để truy điệu các nông dân nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tấn công đồn Cần Giuộc đêm 16 – 12 – 1861.
2, Phân tích
A, Phần 1: Lung khởi.- Hoàn cảnh người nông dân
- Mở đầu: “Hỡi ôi!” " tiếng than thể hiện tình cảm thương xót với người đã khuất
->Tiếng kêu nguy ngập, căng thẳng của đất nước trước giặc ngoại xâm. Tiếng than lay động lòng người, nỗi xót xa, đau đớn trong lòng tác giả.
- Câu 1:
+ Nghệ thuật đối: “Súng giặc đất rền” – “Lòng dân trời tỏ”" Phác hoạ khung cảnh bão táp của thời đại.
+ Hình ảnh không gian to lớn “ đất”, “trời” kết hợp cùng những động từ gợi sự khuếch tán âm thanh, ánh sáng “rền”, “tỏ” " Sự đụng độ giữa thế lực xâm lược, hung bạo với vũ khí tối tân, và ý chí chiến đấu của nhân dân ta.
- Câu 2
Mười năm công vỡ ruộng – một trận nghĩa . người nông dân người nghĩa sĩ đánh Tây
yếu tố thời gian phản ánh sự chuyển biến độc xuất (sức vùng dậy đấu tranh mau lẹ của người dân yêu nước). Hoàn cảnh đất nước bị Pháp xâm lược và sự phản ứng mạnh mẽ đấu tran chống trả của nhân dân.
“Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”
Đây là những nét cơ bản về đức tính của người nông dân Việt Nam
B, Người nông dân trong lao động và chiến đấu
- Hình ảnh người nông dân trong cuộc sống thường nhật
+ Côi cút đ gợi ra cuộc sống âm thầm lặng lẽ, chịu thương chịu khó, gắn bó với đồng ruộng.
+ Toan lo nghèo khổ: Quanh năm làm ăn vất vả mà vẫn quanh năm lo đói lo rách. Sự lựa chọn từ ngữ là biểu hiện ý thức, tấm lòng yêu thương trân trọng của thầy Đồ Chiểu với người nghĩa sĩ nông dân.
- Hoàn cảnh sống của họ
+ Chỉ quen với cuốc cày đồng ruộng “việc cuốc... quen làm”
+ Họ xa lạ với vũ khí, với chiến tranh: “tập khiên... ngó”
+ Họ sống bình dị “Ngoài cật có một manh áo vải”
=> Không chỉ bình dị còn gợi ra sự thiếu thốn, mỏng manh của tấm áo che thân. Đâu phải những người “mớ ba mớ bảy” giàu có gì. Hoàn cảnh của họ gợi ra bao nỗi niềm thương cảm của người đọc. Họ nghèo về vật chất nhưng rất giàu về tinh thần.
* Hình ảnh người nông dân trong trận nghĩa đánh Tây
+ Yêu nước gắn liền với căm thù giặc. “Tiếng phong hạc... cắn cổ”
+ Yêu nước gắn liền với niềm tự hào về truyền thống đất nước và khẳng định quan điểm đúng đắn: “Một mối xa thư... bàn chó”
- Xa thư, xa đồng quỹ, thư đồng văn, xe chung một đường, sách cùng một chữ. Cả câu khẳng định đất nước ta là một khối thống nhất.
- “Hai vầng nhật nguyệt”: mặt trăng và mặt trời. Hình ảnh rực rỡ này khẳng định: Ta với địch (chỉ bọn Pháp), không thể có chỗ đứng chung dưới ánh sáng rực trời của chính nghĩa. Điều đó khẳng định còn ta thì không thể có địch và ngược lại.
+ Lòng yêu nước thể hiện ở tinh thần tự nguyện đứng lên đánh giặc.
“Nào ai.... Bộ hổ”
- Đoạt kình đ bắt, chém loài cá dữ ở biển
- Bộ hổ đ bắt hổ bằng tay không
Câu văn đối nhau về cả hình ảnh và thanh Há để ai/đâu dung lũ, Đoạt kình/bộ hổ, Hoả mai đánh/gươm đeo dùng, Rơm con cúi/lưỡi dao phay.
Tất cả nhằm thể hiện sức mạnh của tinh thần yêu nước của người nghĩa sĩ nông dân. Sau này trong văn học hiện đại, chúng ta bắt gặp những hình ảnh.
“Đất nước của những người mẹ mặc áo vá vai
Bền bỉ nuôi chồng nuôi con đánh giặc”
Và “Đất nước của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng, rắn hơn sắt thép
Những buổi chia tay không bao giờ rơi nước mắt
Nước mắt để những ngày gặp mặt”
+ Hành động chiến đấu của người nghĩa sĩ nông dân thật dũng cảm. Hàng loạt những từ ngữ. “Chi nhọc quan... súng nổ”.
- “Đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không”Kiên quyết mạnh mẽ không sợ giặc, vào đồn giặc như vào chỗ không người.
- “Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có” Tinh thần quả cảm không sợ hi sinh.
=> Hàng loạt những động từ đạp rào, lướt tới, xô cửa, xông vào, đâm ngang chém ngược, hò trước, ó sau làm nổi bật hành động chiến đấu mạnh mẽ của người nghĩa sĩ nông dân. Cách ngắt nhịp câu ngắn gọn tạo giọng điệu không khí khẩn trương sôi động. Tính chất tương phản giữa một bên là nông dân và một bên là kẻ thù xâm lược. Một bên điều kiện chiến đấu không có gì chỉ là lòng “mến nghĩa”, một bên có đủ tàu chiến, súng nhỏ, súng to làm rõ tinh thần chiến đấu.
- Đây là bức tranh công đồn chưa hề thấy trong văn chương trung đại. Ta mới thấy võ quan như Phạm Ngũ Lão “Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu”, một Trần Quốc Tuấn “Chỉ căm tức rằng chưa xả thịt lột da... cũng nguyện xin làm”. Một Đặng Dung mài gươm dưới trăng ngửa mặt nhìn trời than thở. “Mài gươm mấy độ bóng trăng tà”. Một Nguyễn Trãi “Trận Bồ Đẳng sấm vang chấp giật, miền Trà Lân trúc trẻ tro bay, sĩ khí càng hăng, quân Thanh càng mạnh”.
=> Đây là lần đầu tiên người nông dân chiến đấu xuất hiện với vẻ đầy dũng khi hiên ngang trong văn học mặc dù lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã khẳng định công lao to lớn của người dân chân lấm tay bùn.
3, Tổng kết:
- NT: Ngôn ngữ chân thực, giàu cảm xúc
+ Lời văn biền ngẫu, uyển chuyển, giàu hình ảnh.
+ Thủ pháp liệt kê, đối lập..
- ND: + Tác phẩm là khối tượng đài đồ sộ, hoành tráng về người nông dân anh dũng
+ Phát hiện, cái nhìn tiến bộ về người nông dân của nhà thơ.
+ Qua tiếng khóc chân thành trong văn tế, ta càng hiểu tinh thần yêu nước của nhà văn Nam Bộ
III, KB: Khẳng định lại vấn đề
*Bài viết tham khảo
Rất nhiều những người anh hùng đã được ghi tên trong các tác phẩm văn học. Đa phần họ đều là những người có tên tuổi. Nhưng có một nhà thơ đã ghi danh những người anh hùng bình dị - những người nông dân yêu nước trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Đó là Nguyễn Đình Chiểu với tác phẩm ‘ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. 15 câu đầu bài đã dựng lên hình ảnh những người nông dân
Tiếng súng giặc vang lên, những người nông dân chiến sĩ đều đứng lên bảo vệ Tổ quốc:
“Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ…”
Mở đầu bài văn tế, tác giả cũng phải thốt lên “hỡi ôi!” - một câu cảm thán, nó là một sự căm thù với giặc và cũng là một lòng cảm thán đối với dân. Ở đây, tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối để làm nổi bật lên ý chí của những người nông dân. “Súng giặc”, “lòng dân” hai thứ mâu thuẫn với nhau, nó mở ra một trận chiến bão táp, sự đối lập giữa thế lực xâm lăng và tấm lòng trung thành bảo vệ Tổ quốc. “Mười năm công vỡ ruộng” với “một trận nghĩa đánh Tây” càng khẳng định tinh thần của những người chiến sĩ ấy quyết tâm chiến đấu bảo vệ mảnh đất quê hương.
Những tưởng những người chiến sĩ ấy là những quân sĩ tinh nhuệ của triều đình, nhưng không, họ đều là những người nông dân áo vải có cuộc sống bình dị:
“Nhớ linh xưa;
Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó..”
Những người nông dân áo vải với công việc lao động thường ngày, làm lụng vất vả, chịu thương chịu khó để kiếm miếng cơm manh áo. Họ là những con người sống gắn bó với từng tấc đất ruộng đồng, với xóm làng, họ không phải là những binh lính chuyên nghiệp. Trước khi cầm vũ khí lên đánh giặc, họ nào biết đến chiến trận, tâm hồn giản dị với mọi vật xung quanh mình “chỉ biết ruộng trâu trong làng bộ”, chân tay quen với việc cày việc cuốc. Họ là những người nông dân chất phác, đâu biết tới những vũ khí dành cho chiến tranh, đâu biết cưỡi ngựa, trường nhung, đâu biết khiên, súng, mác… Ấy vậy, khi thực dân Pháp xâm lược, họ đã hóa thân nhanh chóng thành những người lính can trường, đứng lên bảo vệ đất nước.
Nghe tin giặc, người dân căm phẫn nhưng trông chờ đâu được tin gì ở triều đình. Họ đã tự giác ra chiến trận để đánh đuổi bọn giặc ngoại xâm. Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng một cách khéo léo những từ ngữ miêu tả rất sinh động và chân thực gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân. Hoàn cảnh chiến đấu ấy, diễn ra thật đối lập. Những người nghĩa sĩ ấy chỉ được trang bị những dụng cụ thô sơ, thiếu thốn “manh áo vải, ngọn tầm vông, dao phay, con cúi..”. Nhưng thứ vũ khí thô sơ ấy không ngăn cản được tinh thần của họ. Bọn giặc đã khiến cho những người nông dân hiền lành ấy muốn “ăn gan”, “cắn cổ” bọn cướp nước. Hình tượng những người binh sĩ ấy càng được tô đậm hơn khi dám đối đầu với vũ khí lợi hại, tối tân của giặc “tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ….”. Nguyễn Đình Chiểu đã dùng rất nhiều ngôn ngữ góc cạnh kết hợp với động từ mạnh như “đâm ngang, chém ngược, xô, đẩy…” để miêu tả tinh thần chiến đấu của họ. Họ chiến đấu dũng cảm, anh dũng hy sinh với khí thế hừng hực “khí thế tấn công như vũ bão, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng”. Nghĩa quân ấy đã xả thân vì nghĩa lớn của dân tộc, vì một tương lai của đất nước.
Những người chiến sĩ ấy đã vì dân tộc mà hy sinh, để lại nỗi đau cho người thân, mẹ già, con thơ. Nguyễn Đình Chiểu cũng như người thân, nhân dân đau đớn trước sự hy sinh. Tiếng khóc của họ bi mà không lụy vì nó tiếp tục ca ngợi công lao của nghĩa sĩ, đồng thời nó thúc giục thế hệ sau tiếp tục sự nghiệp của các anh. Đồ Chiểu đã rất thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh những người nghĩa sĩ hiện lên thật oai phong, lẫm liệt. Giọng văn đều mang âm hưởng bi thương, nhưng lại vô cùng hào hùng để ca ngợi vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” một tác phẩm đặc sắc đã ca ngợi công lao của những người chiến sĩ, nó sẽ mãi là một bài văn chương sống mãi với thời gian. Những nghĩa sĩ Cần Giuộc anh dũng, quả cảm sẽ mãi là một hình tượng đẹp, một tấm gương lớn cho người đời noi theo.
