Phân tích câu 3 đến câu 9 trong tác phẩm nghĩa sĩ cần giuộc

2 câu trả lời

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của nên văn học Việt Nam. Song cuộc đời ông không hề êm đẹp, năm 1849 ông phải bỏ thi để về chịu tang mẹ. Trên đường đi ông bị đau mắt rồi bị mù, về sau ông ra dạy học và bốc thuốc cho dân, cuối cùng tham gia chống Pháp. Chắc bởi có nhiều thời gian ở gần người dân nói chung và nông dân nói riêng nên ông thấu hiểu sự khổ cực, vất vả nhưng lại mang vẻ đẹp bi tráng, sẵn sàng hi sinh vì dân tộc của nông dân Nam bộ mà ông đã viết nên một trang văn hào kiệt"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" theo yêu cầu của Đỗ Quang.

Bài tế gồm bốn phần: Lung khởi, thích thực, ai vãn và kết. Với bố cục như vậy, Nguyễn Đình Chiểu dựng lên trong mắt người đọc, người nghe một bức tượng đài bất tử về người nông dân.

"Nhớ linh xưa Cui cút làm ăn

Riêng lo nghèo khó."

Hình ảnh những con người bình thường hiện lên, những con người sẽ làm nên lịch sử ấy, họ chẳng phải là ai cả, chỉ là những con người sống sau lũy tre làng, sau rặng dừa, bụi chuối vì nghĩa lớn mà hi sinh. Họ hi sinh khi "Tổ quốc cần". Và hình ảnh của họ trở nên cao đẹp từ đó. Họ chỉ là những người quen lấm láp với công việc cấy cày.

"Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung,"

chỉ biết:

"Ruộng trâu ở trong làng bộ.

Việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm.

Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó."

Cuộc sống của họ lặng thầm, ngày ngày chỉ biết lăn lộn cùng miếng cơm manh áo nhưng cuộc sống nghèo đói vẫn ghì sát đất. Họ chưa bao giờ hình dung nổi việc binh đao. Lần đầu nghe tin giặc Pháp giày xéo họ cũng có tâm lí chung của những người "dân đen" "con đỏ", lo sợ, trông đợi rồi thất vọng.

"Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng

Trông tin quan như trời hạn trông mưa

Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm

Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ".

Chờ mong "tin nhạn" nhưng rồi nhạn vắng bóng. Họ đi từ thấp thỏm hi vọng đến vô vọng, từ lo sợ, hoảng loạn đến căm ghét - cái căm ghét trong mơ hồ.

Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ "Chạy giặc”, hai câu kết nói lên niềm mong ước thiết tha:

"Hỏi trong dẹp loạn rày đâu vắng

Nỡ để dân đen mắc nạn này ”

Và mấy năm sau, nhà thơ viết bài “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" - đỉnh điểm nghệ thuật và tư tưởng trong sự nghiệp thơ văn của ông. Có thể coi bài văn tế là tấm lòng trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu trang trải đối với những nghĩa sĩ anh hùng của nhân dân ta trong buổi đầu chống Pháp xâm lược. Nhà thơ lỗi lạc đất Đồng Nai đã dựng nên một “tượng đài nghệ thuật’’ mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm.

Những câu văn trên thuộc phần thích thực của một bài văn tế. Hình ảnh trung tâm của tượng đài nghệ thuật “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những chiến sĩ nghĩa quân. Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo, sống cuộc đời “cui cút” sau lũy tre xanh. Chất phác và hiền lành, cần cù và chịu khó làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với "cung ngựa trường nhung”:

“Nhớ linh xưa

Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ”

Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông "chưa hề ngó tới’’ việc binh và vũ khí đánh giặc: “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.”

Thế nhưng khi đất nước bị giặc Pháp xâm lăng, những “dân ấp dân lân” ấy đã anh dũng đứng lên “Mến nghĩa làm quân chiêu mộ". Đánh giặc để cứu nước cứu nhà, để bảo vệ “bát cơm manh áo ở đời" là cái nghĩa lớn mà họ “mến" và đeo đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu cách cú hay nhất (giản dị mà chắc nịch) ca ngợi lòng yêu nước căm thù giặc của người nghĩa sĩ:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.

Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có một thái độ “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có một chí khí: “Phen này xin ra sức đoạn kình... chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

Bức tượng đài bi tráng mà Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên bằng ngòi bút của mình sẽ mãi mãi tồn tại cùng non sông đất Việt! Đây là bức tượng đài đầu tiên về người nông dân đánh giặc! Chúng ta đều biết, người Việt ta từ khi biết dùng cành cây chọc lỗ gieo hạt cũng là lúc biết vót nhọn ngọn tầm vông, nhọn mũi chông tre để chống lại mọi kẻ thù bốn chân và kẻ thù hai chân! Họ thực là chủ nhân của đất nước. Nhưng trong văn học chính thống trước thời Nguyễn Đình Chiểu, họ chưa một lần trở thành nhân vật trung tâm! Nay Nguyễn Đình Chiểu đã trả lại địa vị chính đáng cho những người chân lấm tay bùn này. Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nước ta cuối thế kỉ XIX có phần đóng góp xứng đáng của tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ! “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” mãi mãi là “bài ca về những người anh hùng thất thế" (Phạm Văn Đồng).

Câu hỏi trong lớp Xem thêm