Nhà văn Anatole France từng nói:"đọc một câu thơ nghĩa là ta gặp gỡ một tâm hồn con người". Anh / chị hiểu như thế nào về câu nói đó? Hãy phân tích một trong 2 bài thơ:"Tự tình"(Hồ Xuân Hương)hoặc "Thương vợ"( Tú Xương) để thấy được vẻ đẹp tâm hồn con người mà anh/ chị gặp trong tác phẩm.
2 câu trả lời
Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ hiếm hoi nổi bật có tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam. Bà có ảnh hưởng không hề nhỏ đối với văn chương sau này: Nét phóng túng và tiềm ẩn trong thơ của Hồ Xuân Hương luôn gây nguồn cảm hứng vô tận cho hậu thế. Xuân Diệu từng nói: “ Trong văn học dân tộc Việt Nam trước cách mạng ít có tác giả nào mà đời mình lại gắn liền với tác phẩm khăng khít như Hồ Xuân Hương”. Lời thơ của bà là tiếng cười nhọn, cười sắc, cười gần về cái xã hội đầy rẫy bất công đối với người phụ nữ. Thân phận lẽ với trái tim luôn khát khao hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội xưa đã trở thành nguồn cảm hứng của thi sĩ. Tiêu biểu là Tự tình II nằm trong chùm thơ Tự tình của bà .
Mở đầu bài thơ Hồ Xuân Hương viết :
“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Những nhà thơ lớn xưa nay đều là những nhà thơ cảm thức về thời gian. Trong bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương thì có tới hai bài thơ thể hiện cảm nhận về thời gian làm nền cho tâm trạng. Có thể nói, thời gian là thể lực nghịch đối với cuộc sống của con người. Thông thường, giữa không gian rợn ngợp, con người sẽ cảm thấy mình thật nhỏ bé vì cô đơn. Nhưng đối với Hồ Xuân Hương lại ngược lại, nhà thơ lại cảm nhận được sự cô đơn trước thời gian. Nhắm mắt lại suy nghĩ về cuộc đời, từng nhịp thở của người phụ nữ trong đêm khuya thanh vắng, tĩnh lặng bỗng thấy “văng vẳng” từ xa vọng lại của tiêng trống cầm canh khắc khoải mong ngóng một điều gì đó. Nhưng càng mong lại càng không thấy, lại mang nỗi thất vọng. Âm thanh ấy không chỉ là bước đi của thời gian mà còn thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải, đầy lo âu và tuyệt vọng của người đàn bà. Dường như, Hồ Xuân Hương đang lắng tai nghe từng bước đi của thời gian trong tâm trạng rối bời. So với câu thơ mở đầu của bài thơ Tự tình I :
“ Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom”
thì ở bài thơ này nỗi buồn càng tăng lên gấp bội. Trong khi tâm trạng như mối tơ vò không thể gỡ mà thời gian cứ thế gấp gáp trôi đi, đọng lại, để lại sự bẽ bàng, tủi hổ. “ Trơ” là một mình, cô đơn, trơ trọi ; “hồng nhan’’ để chỉ người phụ nữ má hồng. Hai chữ “hồng nhan” đi kèm với “cái” để cụ thể hóa. Nghe sao lại rẻ rúng, mỉa mai đến vậy ! Đã vậy, lại còn được đặt trong một không gian rộng lớn “nước non” càng tăng thêm phần rẻ rúng. Nhìn mà thấy thương ! Câu thơ thừa đề không chỉ là sự dãi dầu mà còn cả phân cay đắng trong đó. Dù câu thơ chỉ nói lên 1 vế thành ngữ “hồng nhan’’ mà vẫn làm nổi bật vế ‘’ bạc phận’’. Vì vậy, nỗi xót xa càng ngẫm lại càng đau cho duyên phận hẩm hiu.
Trong cái hoàn cảnh cô đơn, buồn tủi ấy, Hồ Xuân Hương càng tuyệt vọng không lối thoát :
“ Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xé khuyết chưa tròn”
Câu thơ với nét đặc sắc là ẩn chủ ngữ, chỉ thấy hành động và trạng thái diễn ra. Với nỗi cô đơn, ê chề, não ruột ấy, nhân vật trữ tình đã mượn “chén rượu hương” để quên sầu, quên đi sự đời đầy bế tắc này ! Nhưng “say lại tỉnh’’ , càng tỉnh lại càng tháy cô đơn, chán nhường. Hương rượu này để lại vị dắng chát như hương vị tình, tuy chỉ là thoáng qua nhưng lại là vết thương lòng khó phai. Giờ đây chỉ còn cái “phận ẩm duyên ôi” . Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên như một vòng tròn luẩn quẩn, tình duyên là một trò đùa. Trong đêm khuya thanh vắng, Hồ Xuân Hương “ngồi nhấn tàn canh” ngồi uống rượu một mình trong cô đơn đối diện với vầng trăng lạnh. Uống rượu để say nhưng say lại tỉnh, lúc này ngắm trăng thì trăng sắp tàn, không những thế mà còn “khuyết chưa tròn”. Câu thơ không đơn giản chỉ là ngoại cảnh mà còn là tàn cảnh tạo nên sự đồng nhất giữa trằ và tâm hồn người nữ sĩ. Cảnh tình của Hồ Xuân Hương đã được thể hiện rõ quan hình tượng thơ chứa đựng hai lần bi kịch : buồn cay vì tuổi xuân không còn mà nhân duyên chưa trọn vẹn
Tuy nhiên, bên cạnh nỗi đau HXH lại chính là bản lĩnh Hồ Xuân Hương ( chỉ mình nữ thi sĩ mới có). Bản lĩnh ấy được thể hiện phần nào ở câu thừa đề “Trơ” không chỉ là sự tủi hổ, bẽ bàng mà còn là sự thách đố. “Trơ” được đặt trong không gian bao la “nước non” đã cho thấy sự bền gan thách đố nỗi niềm phẫn uất của XH đã lan tỏa khắp cả đất trời. Ở bài thơ Tự tình I bà viết :
“Oán hận trông ra trong ra khắp mọi chòm”
thì ở đây có lẽ vẫn là nỗi “oán hận” ấy mà “trông ra” thì thấy
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”
Thiên nhiên dường như cũng mong nỗi oán hận, phẫn uất. Những sinh vật bé nhỏ mac rất yếu ớt lại càng yếu ớt hơn cả “nội cỏ hoa hèn” nhưng đám rêu kia sao lại không chịu mềm yếu? Nó phải mọc xiên,mà còn phải “xiên ngang mặt đất” mới thỏa lòng ! Đá vốn rất rắn chắc, nay vào thơ Hồ Xuân Hương lại thêm sắc nhọn để “đêm toạc chân mây”. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật lên sự phẫn uất của thân phận rêu, đá. Bên cạnh đó, việc sử dụng từ ngữ tài hoa kết hợp giữa những động từ mạnh “xiên”, “đâm” cùng bổ ngữ “ngang”, “toạc” đã bộc lộ sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. Rêu thì xiên mặt đất, đá thì đâm toạc chân mây thành vạch trời oán hận, không chỉ là sự phẫn uất mà còn là sự phóng khoáng. Dù trong tình huống thê thảm nhất, cảnh vật trong thơ bà lúc nao cũng sinh động, căng tràn sức sống.
Thế nhưng, bi kịch Hồ Xuân Hương lại ở chỗ “bà không mảy may có cảm giác thua cuộc” nhưng kết quả bà lại thua, thua một cách thảm hại. Chính vậy, khép lại bài thơ là tâm trạng chán nhường, buồn tủi cho cảnh ngộ và thân phận :
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.”
“Ngán” là chán ngán, ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương đã “ngán” lắm rồi cái cuộc đời bạc bẽo, éo le này. Xuân đi rồi xuân lại trở về với đất trời nhưng tuổi xuân của con người chẳng thế có lần thứ hai. Hai từ “lại” trong câu thơ có ý nghĩa khác nhau : “lại” đầu tiên có thể hiểu được là sự lăp lại ; “lại” thứ hai là sự trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi trẻ. Biết bao chua chát, chán ngán, nặng nề mà Hồ Xuân Hương gửi vào trong chữ “lại” đầu tiên rồi càng thêm chua xót khi hai chữ “lại” cùng xuất hiện trong câu thơ. Nghệ thuật tăng tiến làm nghịch cảnh thêm éo le hơn: mảnh tình-san sẻ-tí-con con.Tình cảm vốn là thứ vô hình, ta chỉ có thể cảm nhận nó nhưng Xuân Hương lại biến một thứ vô hình thành hữu hình – “mảnh tình”. Chẳng phải là cuộc tình hay mối tình mà là “mảnh tình”. “Mảnh” nghe thôi đã thấy nhỏ bé biết nhường nào. Mà giờ đây phải “san sẻ” chỉ còn lại “tí con con” đã bé lại còn thêm bé hơn. Trông thật xót xa, tôi nghiệp. Sau Xuân Hương, Nguyễn Khuyến cũng dùng từ tài tình như thế : “ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Nhưng đặt trong hoàn cảnh của XH thì lại mang một ý nghĩa đặc biệt. Từng chữ của câu thơ kết hợp vs nhau như một sự sâu chuỗi tạo cảm giác đầy ngậm ngùi, đắng cay. Câu thơ được viết ra từ tâm trạng của người đã mang cảnh lấy chồng chung , từng mang thân phận làm lẽ ( bởi 2 lần bà lấy chồng bà đều làm vỡ lẽ )
“Chết cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.”
Tuy nhiên, cái khái quát của nó lại lớn hơn một hoàn cảnh chung chồng. Đó là nỗi lòng của người phụ nữ trong thời phong kiến khi hạnh phúc đối với họ chỉ là chiếc khăn chật hẹp.
Bài thơ tuy diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng thương của người phụ nữ xưa nhưng bài thơ lại cho thấy một vẻ đẹp tiềm ẩn ở trongg trái tim họ: khát khao hạnh phúc luôn cháy bỏng, mềm yếu nhưng lại mạnh mẽ vươn lên đáng để ta trân trọng
Chào bạn, bạn tham khảo dàn ý sau nhé:
I.Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, luận đề
II.Thân bài
1.Giải thích ý kiến
Đọc một câu thơ nghĩa là ta gặp gỡ một tâm hồn con người: Sự đọc đơn giản là quá trình tiếp nhận, tìm hiểu, suy ngẫm thi phẩm nhưng chính là máu để biến một thể xác vật chất thành một sinh thể có cảm xúc, có vui buồn, có trăn trở. “Câu thơ hay” là câu thơ có giá trị về cả nội dung và hình thức, có thể tạo nên những rung động trong trái tim người đọc. Khi “đọc một câu thơ hay”, chúng ta sẽ “bắt gặp”, tức là phát hiện, gặp gỡ, đồng cảm với những suy nghĩ và cảm xúc của người nghệ sĩ.
=> Ý kiến đề cập đến tính trữ tình của thơ ca, tiếng nói của trái tim mang tính cá thể sáng tạo của chủ thể trữ tình.
2.Phân tích bài thơ
a. Hai câu đề: Nỗi niềm buồn tủi, chán chường
• Câu 1: Thể hiện qua việc tái hiện bối cảnh:
- Thời gian: + Đêm khuya, trống canh dồn – nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống thể hiện bước đi thời gian gấp gáp, vội vã ⇒ Con người chất chứa nỗi niềm, bất an
- Không gian: “văng vẳng”: lấy động tả tĩnh ⇒ không gian rộng lớn nhưng tĩnh vắng
⇒ Con người trở nên nhỏ bé, lạc lõng, cô đơn
• Câu 2: Diễn tả trực tiếp nỗi buồn tủi bằng cách sử dụng từ ngữ gây ấn tượng mạnh:
- Từ “trơ” được nhấn mạnh: nỗi đau, hoàn cảnh “trơ trọi”, tủi hờn, đồng thời thể hiện bản lĩnh thách thức, đối đầu với những bất công ngang trái
- Cái hồng nhan: Kết hợp từ lạ thể hiện sự rẻ rúng
⇒ Hai vế đối lập: “cái hồng nhan” >< “với nước non”
⇒ Bi kịch người phụ nữ trong xã hội
b. Hai câu thực: Diễn tả rõ nét hơn tình cảnh lẻ loi và nỗi niềm buồn tủi
• Câu 3: gợi lên hình ảnh người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng với bao xót xa
- Chén rượu hương đưa: Tình cảnh lẻ loi, mượn rượu để giải sầu
- Say lại tỉnh: vòng luẩn quẩn không lối thoát, cuộc rượu say rồi tỉnh cũng như cuộc tình vướng vít cũng nhanh tan, để lại sự rã rời
⇒ Vòng luẩn quẩn ấy gợi cảm nhận duyên tình đã trở thành trò đùa của số phận
• Câu 4: Nỗi chán chường, đau đớn e chề
- Hình tượng thơ chứa hai lần bi kịch:
+ Vầng trăng bóng xế: Trăng đã sắp tàn ⇒ tuổi xuân đã trôi qua
- Khuyết chưa tròn: Nhân duyên chưa trọn vẹn, chưa tìm được hạnh phúc viên mãn, tròn đầy ⇒ sự muộn màng dở dang của con người
- Nghệ thuật đối → tô đậm thêm nỗi sầu đơn lẻ của người muộn màng lỡ dở
⇒ Niềm mong mỏi thoát khỏi hoàn cảnh thực tại nhưng không tìm được lối thoát.
c. Hai câu luận: Nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng của Xuân Hương
- Cảnh thiên nhiên qua cảm nhận của người mang niềm phẫn uất và bộc lộ cá tính:
+ Rêu: sự vật yếu ớt, hèn mọn mà cũng không chịu mềm yếu
+ Đá: im lìm nhưng nay phải rắn chắc hơn, phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân mây”
+ Động từ mạnh xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ ngang, toạc: thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh
+ Nghệ thuật đối, đảo ngữ ⇒ Sự phản kháng mạnh mẽ dữ dội, quyết liệt
⇒ sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng
⇒ Sự phản kháng của thiên nhiên hay cũng chính là sự phản kháng của con người
d. Hai câu kết: Quay trở lại với tâm trạng chán trường, buồn tủi
• Câu 7: - Ngán: chán ngán, ngán ngẩm
- Xuân đi xuân lại lại: Từ “xuân” mang hai ý nghĩa, vừa là mùa xuân, đồng thời cũng là tuổi xuân
⇒ Mùa xuân đi rồi trở lại theo nhịp tuần hoàn còn tuổi xuân của con người cứ qua đi mà không bao giờ trở lại ⇒ chua chát, chán ngán
• Câu 8:- Mảnh tình: Tình yêu không trọn vẹn
- Mảnh tình san sẻ: Càng làm tăng thêm nỗi chua xót ngậm ngùi, mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn nhưng ở đây còn phải san sẻ
- Tí con con: tí và con con đều là hai tính từ chỉ sự nhỏ bé, đặt hai tính từ này cạnh nhau càng làm tăng sự nhỏ bé, hèn mọn
⇒ Mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn nay lại phải san sẻ ra để cuối cùng trở thành tí con con
⇒ Số phận éo le, ngang trái của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải chịu thân phận làm lẽ
e. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ thơ điêu luyện, bộc lộ được tài năng và phong cách của tác giả:
+ Sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu sức tạo hình, giàu giá trị biểu cảm, đa nghĩa
- Thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ: câu hỏi 2, câu 5 và câu 6
- Sử dụng động từ mạnh: xiên ngang, đâm toạc.
3. Đánh giá
4. Tổng kết
III. Kết bài
- Khẳng định lại ý kiến
- Khẳng định giá trị tác phẩm và vị trí của tác giả