Hãy viết những câu ca dao tục ngữ châm biếm

2 câu trả lời

+) Chồng người đánh giặc sông Lô

Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần

Chồng người cưỡi ngựa bắn cung

Chồng em ngồi bếp cầm thun bắn ruồi.

+)Con cò chết rũ trên cây,

Cò con mở lịch xem ngày làm ma.

Cà cuống uống rượu la đà,

Chim ri ríu rít bò ra lấy phần,

Chào mào thì đánh trống quân

Chim chích cởi trần,vác mõ đi rao.

+)Cái cò lặn lội bờ ao

Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?

Chú tôi hay tửu hay tăm,

Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa

Ngày thì ước những ngày mưa

Đêm thì ước những đêm thừa trống canh

+)Cậu cai nón dấu lông gà

Cậu cai nón dấu lông gà,

Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai

Ba năm được một chuyến sai,

Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê;

+) Bà Bảy đã tám mươi tư

Ngồi bên cửa sổ đưa thư kén chồng;

+)Số cô chẳng giàu thì nghèo

Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.

Số cô có mẹ có cha

Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông

Số cô có vợ có chồng

Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai;

+)Chập chập thôi lại cheng cheng

Con gà trống thiến để riêng cho Thầy

Đơm xôi thì đơm cho đầy

Đơm vơi thì thánh nhà thầy mất thiêng

Ai ơi đừng lấy học trò

Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm

Bà già đã tám mươi tư

Ngồi trông cửa sổ gởi thư lấy chồng

Bà già đi chợ cầu Bông

Hỏi thăm thầy bói lấy chồng lợi chăng

Thầy bói xem quẻ nói rằng

Lợi thi có lợi nhưng răng không còn

Ba năm ở với người đần

Chẳng bằng một lúc ghé gần người khôn

Bắc thang lên hỏi ông trời

Có tiền cho gái có đòi được chăng ?

Cá tươi xem lấy đôi mang

Người khôn xem lấy đôi hàng tóc mai

Tóc mai sợi vắn sợi dài

Có đâu mặt rỗ đá mài không trơn

Cánh hồng bay bổng trời thu

Thương con chim gáy cúc cu trong lồng

Cau già dao bén thì ngon

Người già trang điểm phấn son cũng già

Cau non khéo bửa cũng dầy

Trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm

Cậu kia cắp sách đi đâu

Cậu học chữ Tầu hay học chữ Tây ?

Học chữ Tây không tiền không việc

Học chữ Tầu ai biết ai nghe

Chi bằng về chốn thôn quê

Cấy cày còn được no nê có ngày

Cây cao bóng mát không ngồi

Ra ngồi chỗ nắng trách trời không mây

Cây cao chẳng quản gió lung

Ðê cao chẳng quản nước sông tràn vào

Cây cao thì gió càng lay

Càng cao danh vọng, càng dày gian nan

Canh bầu nấu với cá trê

Ăn vô cho mát mà mê vợ già

Có chồng mà chẳng có con

Cũng bằng hoa nở trên non một mình

Cây vông đồng không không trồng mà mọc

Con gái xóm này chẳng chọc mà theo

Chân mình những lắm bê bê

Lại cầm bó đuốc mà vê chân người

Chẳng nên cơm cháo gì đâu

Trở về đốt bãi trồng dâu nuôi tằm

Chê đây, lấy đấy sao đành

Em chê cam sành , lấy phải quít hôi

Quít hôi bán một đồng mười

Cam ba đồng một, quít ngồi trơ trơ

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn

Xuống bưng sợ đĩa, lên rừng sợ ma

Chèo ghe xuống biển bắt cua

Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi

Chỉ đâu mà buộc ngang trời

Tay đâu mà bụm miệng người thế gian

Chì khoe chì nặng hơn đồng

Sao chì chẳng đúc nên cồng, nên chuông

Cười người chớ vội cười lâu

Cười người hôm trước hôm sau người cười

Chính chuyên chết cũng ra ma

Lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng

Chó đâu chó sủa lỗ không

Không thằng ăn trộm cũng ông ăn mày

Câu hỏi trong lớp Xem thêm

Trong văn bản “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn, nhà văn đã sử dụng rất thành công nghệ thuật tương phản. Hai mặt tương phản cơ bản trong tác phẩm được thế hiện rõ nét: một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả; bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không cho phép ai quấy rầy ván bài của mình, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ. Những người dân hộ đê quần quật làm việc liên tục từ chiều đến gần một giờ đêm. Họ bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai ai cũng mệt lử cả rồi; trong khi mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên. Tác giả nhận xét: “Tình cảnh trông thật là thảm”. Viên quan đi hộ đê thì ngược lại. Hắn ta ngồi trong đình ở chỗ cao ráo, an toàn. Người gãi chân, kẻ quạt mát, các tay chân ngồi hầu bài. Khung cảnh nhàn–nhã, đường bệ, nguy nga. Quan chỉ mê bài. Đáng lẽ phải tắm mưa, gội gió, đứng trên đê đốc thúc, thì quan lại ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu, người hạ. Quan gắt khi có người báo tin đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai đòi cách cổ, bỏ tù người dân báo đê vỡ. Và y tiếp tục vui mừng vì đã ù ván bài, mặc cho dân rơi vào cảnh đê vỡ, “tình cảnh thảm sầu” không sao kể xiết. Tác giả dựng lên hai cảnh tương phản nhằm mục đích so sánh, làm nổi bật sự đối lập. Người có trách nhiệm thì vô trách nhiệm, chỉ ham mê bài bạc. Những người dân thì phải dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chống chọi với thiên nhiên một cách tuyệt vọng. Cuối cùng, sự vô trách nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ. Quan thì sung sướng vì nước bài cao, dân thì khổ vì nước lụt.

1 lượt xem
1 đáp án
10 giờ trước