Hãy nhập vai là cậu vàng trong Lão Hạc, em hãy tường trình lại các sự việc đã xảy ra trong cốt truyện đó.

2 câu trả lời

Em tham khảo nee:

           Tôi là một chú chó nhỏ sống trong một ngôi nhà nghèo của một ông lão lớn tuổi. Một ông lão tội nghiệp cùng tôi sống ngày qua ngày. Lão yêu thương tôi lắm, quan tâm tôi như con đẻ vậy. Thế nhưng cứ tưởng vậy đã đủ khổ, thì bỗng một ngày ông lão bị mất việc làm rồi còn bị ốm. Lão nằm la liệt trong căn nhà có một cái gường đã mục nát. Từng cơn đau quằn quạo, lão rên la suốt. Chẳng biết làm gì, tôi chạy ra chạy vào căn nhà rồi ngồi cạnh lão chờ ngày lão khỏi bệnh. Ít lâu sau lão cũng bình phục hẳn nhưng những gì ăn được hay kiếm sống lão đã mất tất cả. Không còn gì trong tay, sống trong cái đói dày vò mà lão vẫn quan tâm, nhường tôi thức ăn ngon. Nhưng thế cũng chả được bao lâu, một hôm, có những chàng thành niên chạy đến nhà lão quát ầm ĩ cả lên. Đứng ở xa tôi còn nhìn thấy lão Hạc khóc. Bỗng lão gọi tôi về nhà đưa tôi ít đồ ăn, tôi chạy vội về nhận lấy. Vừa đứng gần lại, như có một thứ gì đó phía sau vô lấy mình, có cố chạy cũng chẳng được. Như bị đánh thuốc mê, tôi ngất lúc nào không hay biết. Trong cơn mơ màng, tôi nhớ về những kí ức tươi đẹp cùng mình bên lão, lão đã yêu thương tôi biết bao ...

Nam Cao, tượng đài văn chương hiện thực trước Cách mạng, một trong những cây bút tiêu biểu nhất thế kỷ 20 với thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Xuôi theo dòng chảy văn học đương thời, những tác phẩm mang giá trị nhân đạo, phản ánh hiện thực cao như "Tắt đèn", "Chí Phèo", "Lão Hạc" ra đời năm 1943 đã vạch trần một cách khéo léo hiện trạng xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, một xã hội tàn ác, chà đạp con người đến cùng cực. Trong đó, diễn biến tâm trạng nhân vật Lão Hạc trước và sau khi bán chó được đánh giá là chi tiết đắt giá và gây ám ảnh cho người đọc.

Lão Hạc là một nông dân già nua, nghèo đói, sớm góa vợ, con trai đi đồn điền cao su. Lão có một con chó là kỉ vật người con trai để lại trước khi đi, gọi là cậu Vàng. Lão chăm cậu Vàng như chăm con, thương nó như chính con đẻ của mình. Vì đói nghèo đến cùng cực, lão buộc phải bán cậu Vàng đi, nhưng lương tâm và tình thương con mãnh liệt đã khiến lão chọn con đường tự tử bằng bả chó. Đối với nhiều người hay ngay cả ông giáo trong làng - nhân vật "tôi" trong truyện, việc bán một con chó là một điều hết sức bình thường. Nhưng với lão Hạc, bán cậu Vàng chính là bán đi mối liên kết duy nhất giữa ông và con trai mình. Chính vì thế mà tâm trạng lão mới day dứt, khổ sở, dằn vặt. Một con vật lão thương yêu là thế, đến khi lâm vào đường cùng, lão trăn trở mãi không biết có nên bán hay không. Diễn biến tâm trạng lão Hạc xung quanh việc bán chó có cao trào, có giải quyết, khiến người đọc vừa thương cảm cho số phận nghèo đói của lão, vừa phẫn nộ trước xã hội thực dân nửa phong kiến tàn độc, thối tha.

Trước khi bán cậu Vàng, lão Hạc đối xử với nó như con, nên đứng trước sự lựa chọn bán hay không bán, lão không thể dứt khoát đưa ra quyết định của mình. Năm lần bảy lượt lão thủ thỉ với ông giáo:" Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ!". Đến mức nhân vật ông giáo phải cảm thấy "đã nhàm rồi" vì nghĩ rằng lão nói "để có đấy thôi". Xét cho cùng, chẳng qua cũng chỉ là con chó, việc bán nó đi có gì khó khăn đến vậy. Qua lời tâm sự của lão, nhân vật "tôi" mới hiểu được rằng, con chó ấy do người con trai để lại trước khi bỏ đi đồn điền cao su, bặt âm vô tín mấy năm. Đến đây, người đọc mới ngộ ra rằng, phải chăng với lão, cậu Vàng chính là cậu cháu trai, là đứa trẻ mà lão cho "ăn cơm trong một cái bát", lão ăn gì cũng chia cho nó", "chửi yêu nó", "nói với nó như nói với một đứa cháu bé". Không ngờ rằng cũng đến cái ngày, lão phải chọn cách bán nó vì không thể nuôi nổi do quá nghèo. Tâm trạng vừa chua xót, vừa dằn vặt, chẳng biết bán hay nuôi. Bán thì không cam lòng, mà nuôi thì không nổi vì chẳng có tiền.

Diễn biến tâm trạng lão Hạc sau khi bán chó khiến người đọc cảm thấy đắng cay và thương tâm. Lão tìm đến ông giáo, chạy sang nhà ông báo: "Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!", "cố làm ra vui vẻ" nhưng trông "lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước". "mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô nhau lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra...lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc". Bộ dạng thảm thương đến nhói lòng, sự hối hận, dằn vặt hóa thành những giọt nước mắt chảy trên gương mặt của lão nông tuổi đã xế chiều. Lão cảm thấy bản thân có lỗi với cậu Vàng vì "trót lừa một con chó". Nấc nghẹn trong hàng nước mắt, lão kể với ông giáo khi cậu Vàng bị bắt, tự chửi rủa, trách móc bản thân mình: "Khốn nạn... Ông giáo ơi! Nó có biết gì đâu!", "Nó thấy tôi gọi về thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng", "Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng: "A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này?". Câu trách móc của cậu Vàng hay chính lão Hạc tự trách móc chính mình. Lão thương con chó, đối với nó như con để rồi cuối cùng, chính lão lại là người bán nó cho bọn buôn thịt. Lòng tự trọng và tính cách thiện lương khiến lão Hạc không thể ngưng hối hận. Trong đầu lão bây giờ chỉ quẩn quanh hình ảnh cậu Vàng với ánh mắt trách móc vì lão đã lừa nó. Tâm trạng cùng quẫn đau khổ, như người ta phải cắn răng bán đi chính đứa con đẻ của mình.

Xót thương cho cậu Vàng, lão Hạc chuyển sang xót thương cho chính số phận nghiệt ngã của bản thân. Nghe những lời an ủi của ông giáo, lão chỉ biết "chua chát" bảo:" - Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!...". Cái suy nghĩ của một người già, một người đã gần đất xa trời nhuộm màu đau thương. Lão nghĩ về kiếp người, nghĩ về cậu Vàng, tự khuyên bảo lòng mình rằng đã hóa kiếp cho một con chó để nó được đầu thai làm người. Nhưng rồi lão nhìn lại kiếp người của mình, một kiếp người đơn côi, nghèo khổ, cô độc, một kiếp sống mòn trong xã hội đổ nát, hèn hạ. Sự chiêm nghiệm ở đây khiến độc giả buồn bã, thương cảm cho lão Hạc và cho cả những người dân nghèo vô tội phải oằn mình chịu đựng cái ách một cổ hai tròng, bị bóc lột đến tận xương tủy bởi sưu cao thuế nặng.

Diễn biến tâm trạng lão Hạc xung quanh việc bán chó đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng về tình người, về tình thương yêu, về tấm lòng lương thiện, đáng quý. Miêu tả chi tiết xuôi theo mạch cảm xúc nhân vật, tác giả để bản thân nhân vật tự bộc lộ tính cách, qua đó gợi nhắc đến những phẩm chất tốt đẹp của con người, đồng thời phê phán hiện thực tàn ác đã đẩy con người đến bước đường cùng.

Sau khi tìm hiểu xong bài Phân tích diễn biến, tâm trạng lão Hạc xung quanh chuyện bán con chó Vàng, các em có thể tìm hiểu thêm: Phân tích nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên, Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, Vẻ đẹp con người của lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao, Tình cảnh của người nông dân qua truyện ngắn Lão Hạc.

Phân tích tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng - Mẫu 7

Lão Hạc sống cô đơn từ cái ngày cậu con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Vợ lão đã chết từ lâu, giờ thằng con lão lại sinh ra thế, lão đành ngậm ngùi trầm lặng sống cùng con chó Vàng, kỷ vật duy nhất mà đứa con để lại trước khi đi. Ấy vậy mà cái niềm an ủi duy nhất ấy, lão cũng không có quyền giữ. Mất con chó, lão nông khốn khổ này đã đau đớn day dứt không khác gì mất đi một người thân.

Lão Hạc quý con Vàng lắm. Chẳng gì nó cũng là một kỷ vật. Vợ lão mất đi, tất cả những yêu thương lão dồn cả cho cậu con trai. Nhưng nhà lão nghèo quá, không đủ tiền cưới vợ, con lão bỏ đi. Cậu Vàng lúc này có khác gì cậu con trai quý tử của lão. Lão chăm chút nó chu đáo lắm. Lão ăn gì cũng cho nó ăn theo. Cậu Vàng lớn nhanh và cũng rất trung thành với chủ. Nhưng rồi những trận ốm dai dẳng khiến lão tiêu hết cả chỗ tiền bòn. Lão đành bán chó. Chuyện tưởng chỉ đơn giản như người ta bán đi một con vật nào đó trong nhà. Nhưng với lão Hạc, chuyện bán con chó to tát lắm.

Hôm bán chó xong lão Hạc sang nhà ông giáo báo tin. Lão “cố làm ra vui vẻ nhưng trông lão cười như mếu và đồi mắt lão ầng ậng nước”. Lão đau xót thật. Nỗi đau của lão khiến ông giáo còn cảm thấy “không xót xa năm quyển sách như trước kia nữa”. Ông giáo chẳng biết nói sao, hỏi cho có câu chuyện “thế nó cho bắt à?”, không ngờ nó gợi đúng nỗi đau đang chỉ chực dâng lên và cứ thế là “mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô nhau lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra…lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc”. Bộ dạng lão Hạc trông thật là tội nghiệp. Những giọt nước mắt khó khăn tưởng như không thể có ở cái tuổi gần đất xa trời của lão đã rơi chỉ vì thấy mình có lỗi với chú chó Vàng. Lão khóc như đứa con nít giận dỗi vì bị ai đe nẹt và quát mắng.

Ông giáo bùi ngùi ngồi nghe lão kể. Lão kể chuyện bán chó mà thực chất là để tự xỉ vả mình. Lão nói “Khốn nạn…Ông giáo ơi!...nó có biết gì đâu”. Một câu chửi thề, một lời tự trách, con chó được lão Hạc coi như một đứa con mà mình chẳng khác gì một ông già chuyên lừa lọc. Lão Hạc tưởng tượng trong ánh mắt của con Vàng lúc đó bị trói chặt cả bốn chân là một lời trách móc nặng nề “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử tôi thế này à”. Lời tự vấn chứng tỏ lão Hạc dằn vặt lắm.

Thế rồi lão Hạc cũng nguôi dần nhờ sự động viên của ông giáo. Thôi thì đằng nào nó cũng chết rồi. Lão chua chát bảo “Kiếp con chó là kiếp khổ, thì ta hóa kiếp cho nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút…Kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”. Câu nói của lão Hạc chua xót biết bao. Chẳng gì cái kiếp người của lão đã sung sướng hơn kiếp chó. Cuộc đời lão cũng nhục nhã đủ điều con Vàng đã yên phận nó. Còn lão, lão vẫn phải sống “kiếp người” mà nào có ra gì. Và rồi nay, cái chết của lão đâu có nhẹ hơn cái chết của cậu Vàng.

Tình yêu của lão Hạc đối với cậu Vàng không đơn giản là thứ tình yêu dành cho con vật. Cậu Vàng là kỷ niệm, là nơi duy nhất để lão Hạc hàng ngày tâm sự chuyện mình. Nói chuyện với cậu, lão có cảm giác như đang được gần cậu con trai yêu quý. Chính điều này khiến ta dễ dàng hiểu được tại sao lão Hạc lại dằn vặt và đau đớn khi bán chó đi. Đoạn truyện tuy ngắn nhưng đã gợi ra những phẩm chất vô cùng tốt đẹp của lão nông dân, một con người luôn sống vị tha và thương yêu rất mực.

Phân tích tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng - Mẫu 8

Nam Cao là một nhà văn có biệt tài miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Các nhân vật của ông hiện lên trong tác phẩm với tất cả những nét tâm trạng rất thực của con người. Tâm trạng của lão Hạc sau khi bán cậu Vàng trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp ta hiểu hơn về phẩm chất và tính cách của lão, và thấy rõ nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn.

Trong thiên truyện ngắn này, nhân vật cậu Vàng có mối quan hệ đặc biệt với nhân vật chính lão Hạc. Nó không chỉ đơn thuần là con vật nuôi trong nhà mà nó còn là một người bạn chia sẻ niềm vui nỗi buồn với ông lão trong cảnh sống một thân một mình. Quan trọng hơn, với lão Hạc, cậu Vàng giống như một người cháu, là sợi dây duy nhất nối lão với người con trai bất hạnh ở nơi xa. Chính vì vậy, ta nhận ra tình cảm đặc biệt mà ông lão dành cho cậu Vàng. “Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự” ; “Lão cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu” ; “Lão ăn gì cũng chia cho nó cùng ăn” ; “Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó”,… Những tháng ngày xa con, lão sống trong tình yêu thương và niềm hi vọng về con trai. Niềm động viên để lão đỡ cô đơn là cậu Vàng. Nhưng cuộc sống nghèo khổ, đã từng cướp đi của lão đứa con trai duy nhất giờ đây lại cướp nốt cậu Vàng của lão. Lão buộc phải bán cậu Vàng bởi : “Cứ mãi thế này thì tôi lấy tiền đâu mà nuôi được ?” ; “Bây giờ tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó”.

Trước khi bán cậu Vàng, ta thấy tâm trạng của lão Hạc cũng đầy những đắn đo : “Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ !”. Sự đắn đo ấy xuất phát từ tình yêu thương với con chó mà thực ra là một người bạn đặc biệt của lão. Bởi trong lòng lão không muốn phải rời xa cậu Vàng. Lão đã tâm sự với ông giáo hết lí lẽ vì sao lão lại bán cậu Vàng. Như vậy, trong lão cũng đầy những sự khổ tâm, dằn vặt trước quyết định của mình.

Tâm trạng đó được đẩy lên đến đỉnh điểm sau khi lão bán cậu Vàng. Người đọc không khỏi xúc động khi Nam Cao tả lại cảnh lão Hạc sang nhà ông giáo kể lại việc lão bán con chó. Nam Cao đã sử dụng hàng loạt từ ngữ, hình ảnh để diễn tả thái độ, tâm trạng của lão Hạc sau khi đã buộc lòng phải bán cậu Vàng. “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Tác giả đã lột tả được sự đau đớn, hối hận, xót xa, thương tiếc của ông lão dành cho cậu Vàng… Tất cả đang trào dâng và chỉ chực vỡ oà khi có người hỏi đến. Đối với một người bình thường thì việc bán con chó mình nuôi để người ta giết thịt chỉ là một việc làm hết sức bình thường, nhưng với lão Hạc – một người nông dân giàu tình thương và đôn hậu thì đó là một vết thương lòng đau đớn tự mình gây nên. Lão khóc – những giọt nước mắt của một con người mà cả đời đã quá nhiều đau khổ. Cuộc đời của lão Hạc là dòng nước mắt chảy dài của những nỗi đau bất lực. Nước mắt lão đã cạn kiệt, cho nên khi khóc, “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít”. Không biết đây là cái tài miêu tả của Nam Cao hay là cái tình của nhà văn đối với sự tủi cực của kiếp người đã hoá thành cái tài ấy ?

Cái hay trong nghệ thuật miêu tả tâm lí lão Hạc của nhà văn Nam Cao là ở chỗ nhà văn đã thể hiện chân thật, cụ thể và chính xác, tuần tự diễn biến tâm trạng đau đớn cứ dâng lên như không thể kìm nén nổi của lão, tất cả đều rất phù hợp với tâm lí, hình dáng và cách biểu hiện của những người già. Tất cả từ đầu, từng nét, từng nét, để dẫn tới xung đột đỉnh điểm của tâm trạng và cuối cùng oà vỡ ra thành tiếng khóc hu hu như con nít. Từ tâm trạng đau khổ tột cùng khi phải xa cậu Vàng, thái độ của lão Hạc chuyển sang day dứt, ân hận, xót xa. Lão trách mình đã có tội với con Vàng, là kẻ phản bội, bất nhân đã lừa một con chó. Lão tưởng tượng cậu Vàng trách mình : “A ! Lão già tệ lắm ! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à ?”. Lão tưởng tượng ra lời cậu Vàng trách lão mà thực chất là lão đang trách mình, đang tự sỉ vả mình khi đã bán cậu Vàng. Sự ân hận này là biểu hiện rất cao của ý thức. Với lão, cậu Vàng không phải là một con vật nuôi bình thường mà giống như một con người cụ thể đã yêu thương và gắn bó với lão. Sự ân hận này là biểu hiện cao của tình yêu thương tha thiết đối với cậu Vàng.

Theo đà câu chuyện giãi bày, thái độ lão Hạc chuyển sang chua chát, ngậm ngùi. Những câu nói : “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn !” ; “kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng ?” đượm màu triết lí dân gian dung dị của những người nông dân nghèo khổ, thất học nhưng đã bao năm tháng trải nghiệm và suy ngẫm về số phận con người qua số phận của chính bản thân mình. Những câu nói thể hiện nỗi buồn, sự bất lực của họ trước hiện thực và tương lai không một màu hi vọng.

Như vậy tâm trạng của lão Hạc sau khi bán cậu Vàng là tâm trạng đau khổ tột cùng, ân hận, oán trách bản thân và kết đặc lại là một sự ngậm ngùi, chua xót cho kiếp sống khốn khổ của phận người. Từ chi tiết bán con Vàng, lão Hạc đã phải sống những giây phui đau khổ như khi phải dứt ruột chia tay thằng con trai. Nam Cao như đang dừng ống kính máy quay của mình để quay cận cảnh, phát hiện ra chiều sâu trong đời sống nội tâm của nhân vật. Qua đó người đọc càng thấy được những nét nhân cách rất Người, rất đáng trọng của một lão nông nghèo khổ nhưng bất hạnh.

Truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao sẽ mãi khắc sâu trong tâm trí người đọc hình ảnh một ông già nghèo khổ đang vuốt ve, cưng nựng cậu Vàng như một người cháu nhỏ. Người đọc mãi day dứt với hình ảnh một ông già khóc “hu hu” như một đứa trẻ vì thấy mình đã trót lừa một con chó. Câu chuyện về lão Hạc và cậu Vàng còn đó như một niềm ám ảnh khôn nguôi…

Phân tích tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng - Mẫu 9

Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm – nhân vật lão Hạc – dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.

Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,…

Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử…! Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên… Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.

Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.

Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,… ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,… là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.

Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!

Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Cao...) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: “"con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn di. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!

Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người – kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!

Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.

Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.

Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.

Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiêm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!

Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm