2 câu trả lời
Đáp án:
Ma sát là một hiện tượng quan trọng trong lĩnh vực vật lí ứng dụng, nguồn gốc của nó đã được nghiên cứu trong hàng thế kỉ qua. Cho đến nay, người ta hiểu rằng sự đệm cơ giới và bôi trơn chất lỏng ảnh hưởng đến ma sát, nhưng nguồn gốc căn bản của ma sát trượt thì vẫn chưa rõ. Tiến sĩ Lasse Makkonen tại Trung âm Nghiên cứu Công nghệ Phần Lan vừa nêu ra một lời giải thích cho nguồn gốc của sự ma sát trượt giữa các vật rắn.
Theo lí thuyết của ông, lượng ma sát phụ thuộc vào năng lượng bề mặt của các chất liệu đang nghiên cứu.
Ma sát có tác động lớn đối với nhiều hiện tượng hàng ngày, ví dụ sự tiêu thụ năng lượng. Mô hình của Makkonen là mô hình đầu tiên cho phép tính toán định lượng hệ số ma sát của các chất liệu.
Theo lí thuyết của Makkonen, lượng ma sát liên quan đến năng lượng bề mặt của chất liệu. Ma sát phát sinh ở những tiếp xúc cấp độ nano, là hệ quả của sự hình thành bề mặt mới. Lí thuyết của Makkonen giải thích sự ra đời của lực ma sát và sự nóng lên do ma sát ở những chỗ tiếp xúc khô. Nó có thể áp dụng để tính ra hệ số ma sát của nhiều kết hợp chất liệu khác nhau.
Mô hình của ông cũng cho phép xử lí sự ma sát bằng cách chọn những chất liệu bề mặt nhất định hoặc các chất liệu dùng trong những lớp bôi trơn, dựa trên năng lượng bề mặt giữa chúng.
Các nhà triết học thời cổ điển đã sử dụng khái niệm lực trong nghiên cứu những vật chuyển động và đứng yên cũng như các máy đơn giản, tuy thế các triết gia như Aristotle và Archimedes đã mắc phải những sai sót cơ bản khi nghiên cứu về lực. Một phần là do sự hiểu biết không đầy đủ về biểu hiện lực của ma sát, dẫn đến cách nhìn không thỏa đáng về bản chất của chuyển động trong tự nhiên.Một sai lầm cơ bản đó là niềm tin rằng lực là cần thiết để duy trì sự chuyển động, ngay cả với vận tốc không đổi. Hầu hết những hiểu lầm trước đó về chuyển động và lực cuối cùng đã được Isaac Newton miêu tả đúng đắn; với ý nghĩa toán học bên trong, ông đã thiết lập lên các định luật về chuyển động mà đã đứng vững trong gần ba trăm năm. Đầu thế kỷ XX, Albert Einstein phát minh ra thuyết tương đối cho phép tiên đoán đúng đắn tác dụng của lực lên những vật với chuyển động xấp xỉ tốc độ ánh sáng, cũng như mang lại hiểu biết mới về bản chất của lực hấp dẫn và quán tính.
Cùng với tầm nhìn hiện đại theo cơ học lượng tử và công nghệ cho phép gia tốc các hạt cơ bản tới gần tốc độ ánh sáng, vật lý hạt đã đưa ra Mô hình chuẩn để miêu tả các lực giữa những hạt hạ nguyên tử. Mô hình chuẩn tiên đoán sự trao đổi các hạt gọi là boson gauge (boson chuẩn) có ý nghĩa như các lực là hấp thụ hay phát ra hạt. Chỉ có bốn tương tác cơ bản gồm: tương tác mạnh, tương tác điện từ, tương tác yếu, và tương tác hấp dẫn.:2-10:79 Thực nghiệm của vật lý năng lượng cao trong thập niên 1970 và 1980 xác nhận rằng tương tác yếu và tương tác điện từ được thống nhất bởi tương tác điện yếu.