Giúp mình hoàn thành các câu này với ạ, mình cám ơn. Câu 1- Cơ sở quan trọng nhất của hôn nhân là gì? (Mình đã trả lời là: Tình yêu chân chính là cơ sở quan trọng của hôn nhân.) Giúp mình cho ví dụ để làm rõ. Câu 2- Muốn hợp đồng làm việc với một công ty hay một xí nghiệp nào đó, người lao động cần phải hoàn thành những thủ tục lao động nào? Câu 3- Nhà nước có trách nhiệm gì trong việc giải quyết việc làm cho người lao động? (Mình đã trả lời trong phần 3 trong mục II Nội dung bài học.) Giúp mình cho 1 ví dụ để làm rõ.

1 câu trả lời

Câu 1 : Hôn nhân là một sự hợp nhất được công nhận về mặt văn hóa giữa những người, được gọi là vợ chồng. Hôn nhân tạo ra quyền lợi và nghĩa vụ giữa họ, cũng như giữa họ và con cái của họ, và giữa họ và gia đình của người kia.[2] Định nghĩa về hôn nhân khác nhau trên khắp thế giới, không chỉ giữa các nền văn hóa và giữa các tôn giáo, mà còn trong suốt lịch sử của bất kỳ nền văn hóa  tôn giáo nào. Theo thời gian, hôn nhân đã được mở rộng và cũng bị hạn chế về mặt ai và những gì được bao gồm trong khái niệm này. Thông thường, nó là một thiết chế trong đó các mối quan hệ giữa các cá nhân, thường là tình dục, được thừa nhận hoặc bị xử phạt. Trong một số nền văn hóa, hôn nhân được khuyến nghị hoặc coi là bắt buộc trước khi theo đuổi bất kỳ hoạt động tình dục nào. Khi được định nghĩa rộng rãi, hôn nhân được coi là một phổ quát văn hóa. Một nghi lễ đánh dấu hôn nhân được gọi là một đám cưới.

Các cá nhân có thể kết hôn vì một số lý do, bao gồm các mục đích pháp lý, xã hội, tự nguyện, tình cảm, tài chính, tinh thần và tôn giáo. Người mà họ kết hôn có thể bị ảnh hưởng bởi giới tính, các quy tắc xác định xã hội về loạn luân, quy tắc hôn nhân theo quy định, lựa chọn của cha mẹ và mong muốn cá nhân. Ở một số khu vực trên thế giới, hôn nhân sắp đặt, hôn nhân trẻ em, đa thê và đôi khi là cưỡng hôn, có thể được thực hiện như một truyền thống văn hóa. Ngược lại, những hành vi như vậy có thể bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị phạt ở nhiều nơi trên thế giới vì lo ngại về việc xâm phạm quyền của phụ nữ hoặc quyền trẻ em (cả nữ và nam) hoặc do luật pháp quốc tế.[3] Trên khắp thế giới, chủ yếu ở các nền dân chủ phát triển, đã có một xu hướng chung hướng tới việc đảm bảo quyền bình đẳng cho phụ nữ trong hôn nhân và công nhận về mặt pháp lý các cuộc hôn nhân của các cặp vợ chồng khác tôn giáo, khác chủng tộc và đồng giới. Những xu hướng này trùng hợp với các phong trào nhân quyền rộng lớn hơn.

Hôn nhân có thể được công nhận bởi một nhà nước, một tổ chức, một cơ quan tôn giáo, một nhóm bộ lạc, một cộng đồng địa phương hoặc các đồng nghiệp. Nó thường được xem như một hợp đồng. Khi một cuộc hôn nhân được thực hiện và thực hiện bởi một tổ chức chính phủ theo luật hôn nhân của khu vực tài phán, không có nội dung tôn giáo, đó là một cuộc hôn nhân dân sự. Hôn nhân dân sự thừa nhận và tạo ra các quyền và nghĩa vụ nội tại đối với hôn nhân trong mắt nhà nước. Khi một cuộc hôn nhân được thực hiện với nội dung tôn giáo dưới sự bảo trợ của một tổ chức tôn giáo, đó là một cuộc hôn nhân tôn giáo. Hôn nhân tôn giáo thừa nhận và tạo ra các quyền và nghĩa vụ nội tại đối với hôn nhân trong mắt của tôn giáo đó. Hôn nhân tôn giáo được gọi khác nhau là hôn nhân bí tích trong Công giáo, nikah trong Hồi giáo, nissuin trong Do Thái giáo, và nhiều tên khác trong các truyền thống đức tin khác, và với mỗi tôn giáo có những ràng buộc riêng về những gì tạo nên một cuộc hôn nhân tôn giáo được coi là hợp lệ.

Một số quốc gia không công nhận hôn nhân tôn giáo được thực hiện tại địa phương và yêu cầu một cuộc hôn nhân dân sự riêng cho các mục đích chính thức. Ngược lại, hôn nhân dân sự không tồn tại ở một số quốc gia được quản lý bởi một hệ thống pháp luật tôn giáo, chẳng hạn như Ả Rập Saudi, nơi các cuộc hôn nhân ký kết ở nước ngoài có thể không được công nhận nếu chúng được ký kết trái với cách giải thích của đạo luật Hồi giáo. Ở các quốc gia được quản lý bởi một hệ thống pháp lý tôn giáo thế tục hỗn hợp, chẳng hạn như ởLebanon  Israel, hôn nhân dân sự được thực hiện tại địa phương không tồn tại trong các quốc gia này, điều này ngăn cản hôn nhân không cùng tôn giáo và nhiều hôn nhân khác trái ngược với luật tôn giáo của quốc gia đó; tuy nhiên, các cuộc hôn nhân dân sự được thực hiện ở nước ngoài có thể được nhà nước công nhận ngay cả khi chúng mâu thuẫn với luật tôn giáo. Ví dụ, trong trường hợp công nhận hôn nhân ở Israel, điều này bao gồm sự công nhận không chỉ các cuộc hôn nhân dân sự được thực hiện ở nước ngoài, mà cả các ký kết hôn nhân dân sự đồng giới ở nước ngoài.

Hành động của hôn nhân thường tạo ra quy phạm nghĩa vụ hoặc pháp lý giữa các cá nhân liên quan, và bất kỳ con cái mà hôn nhân tạo ra hoặc được nhận nuôi. Về mặt công nhận pháp lý, hầu hết các nước có chủ quyền và vùng lãnh thổ khác hạn chế hôn nhân chỉ với các cặp vợ chồng dị tính và một số ít các quốc gia cho phép đa phu đa thê, tảo hôn, và hôn nhân cưỡng bức. Trong thời hiện đại, một số quốc gia ngày càng phát triển, chủ yếu là các quốc gia có nền dân chủ phát triển, đã dỡ bỏ lệnh cấm và đã thiết lập sự công nhận hợp pháp cho các cuộc hôn nhân của các cặp vợ chồng khác tôn giáo, chủng tộc  đồng giới. Ở một số khu vực, tảo hôn và chế độ đa thê có thể xảy ra bất chấp luật pháp quốc gia chống lại hành vi này.

Từ cuối thế kỷ XX, những thay đổi xã hội lớn ở các nước phương Tây đã dẫn đến những thay đổi về nhân khẩu học của hôn nhân, với tuổi khi kết hôn đầu tiên ngày càng tăng, ít người kết hôn và nhiều cặp vợ chồng chọn sống chung hơn là kết hôn. Ví dụ, số lượng các cuộc hôn nhân ở châu Âu đã giảm 30% từ năm 1975 đến năm 2005.[4]

Trong lịch sử, trong hầu hết các nền văn hóa, phụ nữ có chồng có rất ít quyền của riêng họ, được xem xét, cùng với con cái của gia đình, tài sản của người chồng; như vậy, họ có thể không sở hữu hoặc tài sản thừa kế, hoặc đại diện cho bản thân một cách hợp pháp. Ở châu Âu, Hoa Kỳ và các nơi khác trong các nước phát triển, bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, hôn nhân đã trải qua những thay đổi pháp lý dần dần, nhằm cải thiện quyền của người vợ. Những thay đổi này bao gồm việc cho người vợ có định danh pháp luật của chính họ, bãi bỏ quyền của người chồng được cai quản về mặt thể xác của vợ, trao quyền sở hữu cho vợ, tự do hóa luật ly hôn, tạo cho người vợ quyền sinh sản của họ và cần có sự đồng ý của vợ khi quan hệ tình dục. Những thay đổi này đã xảy ra chủ yếu ở các nước phương Tây. Trong thế kỷ 21, tiếp tục có những tranh cãi về tình trạng pháp lý của phụ nữ đã kết hôn, sự chấp nhận hợp pháp hoặc khoan hồng đối với bạo lực trong hôn nhân (đặc biệt là bạo lực tình dục), phong tục hôn nhân truyền thống như của hồi môn  giá cô dâu, hôn nhân cưỡng bức, tuổi kết hôn và hình sự hóa các hành vi đồng thuận như quan hệ tình dục trước hôn nhân  ngoại tình
Câu 2 : Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động thì doanh nghiệp phải đảm bảo điều kiện về căn cứ chấm dứt theo quy định pháp luật và thời gian báo trước. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hợp đồng lao động không đảm bảo các điều kiện theo quy định, điều này xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi của người lao động
Câu 3 : - Khuyến khích tạo điều kiện cho các hoạt động tạo ra việc làm thu hút lao động
- Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh giải quyết việc làm cho người lao động

Câu hỏi trong lớp Xem thêm