So sánh cấu tạo của động cơ đốt 4ki và động cơ đốt 2 kì
2 câu trả lời
1. Tiện lợi:
– Động cơ 2 kì đơn giản hơn động cơ 4 kì vì không có xu - páp và các bộ phận điều khiển xu - páp như xích cam, cốt cam, cò mỏ.
– Chạy êm hơn động cơ 4 kì vì không có tiếng kêu đóng mở xu - páp và các cơ cấu phụ thuộc.
– Quay đều vòng hơn động cơ 4 kì vì mỗi vòng quay là một thì phát động còn động cơ 4 kì 2 vòng quay mới có một thì phát động.
– Cùng một công suất: máy 2 kì nhẹ hơn máy 4 kì và ít bộ phận hơn.
– Không cần phải có thợ lành nghề để hiệu chỉnh xu - páp, cân cốt cam.
2. Bất tiện:
– Cùng một cở máy (cùng đường kính, khỏang chạy, tỉ số nén…) động cơ 2 kìtiêu thụ nhiều xăng hơn động cơ 4 kì và có hiệu suất nhỏ hơn. Ví dụ: Cùng một cỡ, động cơ 4 kì có 10 mã lực thì động cơ 2 kì phải có 20 mã lực. Nhưng thực tế chỉ có 15 mã lực.
Sự giảm công suất ấy là do các nguyên nhân sau:
– Sự cần thiết phải mở sớm lỗ thoát 8/10 khoảng chạy xuống làm cho sự giãn nở khí cháy không trọn vẹn.
– Một phần hòa khí sẽ bị cháy lôi ra ngoài vì 2 lỗ thoát nạp cùng mở.
– Dùng pít - tông để ép hòa khí ở catte làm giảm bớt một phần công suất động cơ.
Vì hững lý do vừa kể trên nên động cơ 2 thì chỉ được áp dụng ở một số động cơ có
công suất nhỏ như xe gắm máy.
Hiện nay, lượng xe 4 kỳ trên thị trường tiêu thụ mạnh hơn nhiều xe 2 kỳ. Người tiêu dùng cho rằng xe 2 kỳ chạy hao xăng hơn và máy không bền như 4 kỳ, chỉ có thanh niên mới "chơi" loại xe này.
Cấu tạo động cơ 4 kỳ phức tạp hơn nhiều động cơ 2 kỳ, động cơ 4 kỳ phải dùng cơ cấu súp-páp (giống như nút chai) đóng mở để hòa khí và thoát khí cháy. Sự đóng mở của súp-páp liên quan đến nhiều bộ phận khác trong máy như sên cam, cam, cốt cam, cò mổ. Trong quá trình hoạt động, các cơ phận này va đập, mài mòn ở nhiệt độ cao. Do đó việc toả nhiệt phải được đặc biệt chú trọng.
Ở động cơ 2 kỳ, việc hút và thoát khí cháy nhờ vào pít-tông và các lỗ hút, lỗ thoát nằm ngay tại xilanh máy. Cơ cấu động cơ đơn giản hơn. Việc sửa chữa xe 2 kỳ cũng đơn giản hơn. Tuy nhiên nếu cứ sử dụng lâu ngày, pít-tông, bạc bị lỏng, thì một phần hòa khí bị thất thoát qua khe hở giữa pít-tông và xilanh. Điều này làm xe bị hao xăng hơn so với động cơ 4 kỳ cùng tình trạng.
Động cơ 2 kỳ có hành trình máy ngắn hơn nên xe bốc hơn nhưng cũng chính vì vậy mà các linh kiện động cơ phải chịu nhiều lực hơn, khiến tuổi thọ không thể cao bằng xe 4 kỳ. Hơn nữa, lực hút nhiên liệu ở động cơ 2 kỳ phụ thuộc trực tiếp vào lực nén của pít-tông, nên với những xe đã bị dão thường là rất khó nổ, nhất là vào buổi sáng.
Tuy nhiên độ bền của xe còn tùy thuộc vào người sử dụng. Ở xe 4 kỳ, chạy khoảng 1.500 km, nên thay nhớt và nên dùng nhớt có cấp chất lượng API SE hoặc SF, SG.
Với xe 2 kỳ, phải pha nhớt với xăng đúng liều lượng, khoảng 4-5% để việc bôi trơn dàn đầu của máy được tốt. Pha nhớt quá ít, việc tản nhiệt và bôi trơn máy kém. Pha nhiều quá, việc đốt cháy hỗn hợp khí không tốt, cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động của máy. Một số loại xe 2 kỳ đời mới có chế độ tự pha dầu bằng bơm, tuy nhiên cần cảnh giác với loại bơm này vì bơm hỏng đồng nghĩa với việc phá tan luôn động cơ. Hơn nữa không nên ép ga, côn quá mạnh bởi điều này làm các linh kiện phải chịu lực quá lớn khiến chúng bị mòn nhanh. Khi đã không chuẩn, động cơ 2 kỳ dão rất nhanh.
Động cơ 4 kỳ chạy đầm hơn, bền hơn nhưng cũng cần để ý đến chế độ dầu bởi nếu độ nhớt kém sẽ làm linh kiện nhanh mòn và do cấu tạo phức tạp nên việc sửa chữa cũng rất khó khăn.