Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ "cảnh khuy" của Hồ Chí Minh
2 câu trả lời
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình hoạt động cách mạng, thơ văn đã trở thành vũ khí sắc bén của Người. Với tâm hồn của người chiến sĩ và thi sĩ, Bác đã để lại cho đời những bài thơ hay. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp tại Việt Bắc, Người đã viết bài thơ “Cảnh khuya”. Bài thơ đã để lại trong tôi những cảm xúc sâu sắc về tình yêu thiên nhiên hoà quyện trong tình yêu đất nước mãnh liệt của Bác.
Ngay từ đầu bài thơ, qua cảm nhận tinh tế của Bác, bức tranh thiên nhiên hùng vĩ thơ mộng của núi rừng Việt Bắc hiện lên thật sinh động và tươi đẹp:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Nghệ thuật so sánh tiếng suối với “tiếng hát xa” gợi một âm thanh tuyệt vời, trầm bổng du dương của rừng đêm yên tĩnh. Quả là nghệ thuật thi trung hữu nhạc của những thi nhân xưa thật đặc sắc. Tiếng suối là khúc nhạc của rừng đêm, tiếng hát là âm thanh, là lời ca của con người, hai thứ âm thanh ấy được so sánh với nhau khiến khung cảnh rừng đêm hoang vắng bỗng trở nên ấm áp hơi ấm sự sống của con người. Tôi bỗng hình dung như trước mắt mình là một dòng suối trong trẻo đang róc rách chảy hay một nàng thiếu nữ xinh xắn thiết tha duyên dáng đang cất lên lời ca trầm bổng du dương giữa khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Trong khu rừng đêm yên tĩnh đó có một thi nhân đang ngồi lắng nghe khúc nhạc rừng, và tôi cũng bị mê say trong khúc nhạc du dương ấy.
— Để tham khảo được tài liệu một cách đầy đủ, thầy cô và các em vui lòng đăng nhập vào LuatTreEm để xem và tải tài liệu về máy —
Tiếng suối chảy êm đềm nghe rất trong rì rầm từ xa vọng đến. Cảm nhận của Bác thật tinh tế, nghe suối chảy mà cảm nhận được mức độ xanh trong của dòng nước. Tiếng suối trong đêm khuya như tiếng hát xa dịu êm vang vọng, khoan nhạt như nhịp điệu của bài hát trữ tình sâu lắng. Đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh, tiếng suối rì rầm êm ả, vắng lặng trong đêm chiến khu. Tiếng suối và tiếng hát là nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu thời máu lửa mang sức sống và hơi ấm của con người:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Sáu trăm năm trước trong bài thơ “Bài ca Côn Sơn”, Ức Trai đã có cảm nhận cực kỳ tinh tế về dòng suối Côn Sơn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bền tai
Tiếng suối nghe sao mà êm đềm thơ mộng đến thế. Nó như những giọt của cây đàn cầm vang vọng bên tay.
Đầu thế kỷ XX Nguyễn Khuyến đã từng viết về dòng suối như sau:
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo…
Mỗi một vần thơ, mỗi một khung cảnh, âm thanh của suối chảy được cảm nhận tinh tế khác nhau. Sau tiếng suối nghe như tiếng hát xa kia là trăng chiến khu. Ánh trăng chiến khu sao mà sáng và đẹp thế. Tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng thấp là hoa – hoa rừng.
Cả núi rừng Việt Bắc đang tràn ngập dưới ánh trăng. Ánh trăng bao phủ khắp không trung mát dịu, len lỏi xuyên qua kẽ lá, tán cây, ánh trăng như âu yếm, hoà quyện cùng thiên nhiên cây cỏ. Ánh trăng như xoáy và lồng vào những tán lá. Và trên mặt đất những đoá hoa rừng đang ngậm sương đêm cùng với bóng cổ thụ đan xen trên mặt đất. Đêm thanh, trên không trung dường như chỉ có vầng trăng ngự trị. Đêm vắng, trăng thanh mặt đất cỏ cây như ngừng thở để đón đợi ánh trăng mát lạnh dịu hiền mơn man ôm ấp:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Chữ “lồng” điệp lại hai lần đã nhân hoá vầng trăng, cổ thụ và hoa. Trăng như người mẹ hiền đang tiếp cho muôn vật trần gian dòng sữa ngọt ngào. Trăng trở nên thi vị, trữ tình lãng mạn. Chữ “lồng” gợi cho ta nhớ đến những câu thơ sau trong “Chinh phụ ngâm”:
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng…
Trong câu có tiểu đối “trăng lồng cổ thụ” / “bóng lồng hoa” tạo sự cân xứng trong bức tranh về trăng. Ngôn ngữ thơ trang trọng, điêu luyện tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp tràn đầy chất thơ. Cảnh khuya trong sáng, lung linh huyền ảo. Đọc vần thơ ta nghe như có nhạc, có hoạ, bức tranh cảnh núi rừng Việt Bắc thơ mộng biết bao. Người xưa từng nói “thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc” quả thật không sai. Đối với Bác trăng đã trở nên “tri âm, tri kỷ” nên làm sao có thể hờ hững trước cảnh đẹp đêm nay.
Trong ngục tối bị giam cầm, trước ánh trăng tuyệt đẹp Bác Hồ cũng đã có những vần thơ tuyệt diệu:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ…
(Ngắm trăng)
Một thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ. Trước cảnh đẹp đêm trăng: Có suối, có hoa lá, núi ngàn, và cả tâm trạng của Bác. Bác không chỉ xúc động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Nước nhà đang bị giặc xâm lăng giày xéo, biết bao đồng chí đang bị gông cùm xiềng xích.
Cuộc đời còn lầm than cơ cực, bao năm Bác bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ lầm than. Nay nước nhà còn đang chìm trong khói lửa đạn bom lòng Bác sao có thể ngủ yên giấc được. Chưa ngủ không hẳn chỉ vì cảnh đẹp đêm nay mà chưa ngủ vì “nỗi nước nhà”.
Nỗi nhớ nhà, lo cho nước nhà làm cho trái tim Bác luôn thổn thức. Bác thức trong đêm khuya trằn trọc, băn khoăn không sao ngủ được. Lòng yêu nước sâu sắc, mãnh liệt xiết bao.
Đã có biết bao đêm Bác Hồ của chúng ta cũng mất ngủ như vậy:
Một canh, hai canh, lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
(Không ngủ được)
Hình ảnh sao vàng chính là tự do độc lập, niềm thao thức mơ ngày mai ánh hồng soi đất nước hoà bình. Một tâm hồn nghệ sĩ thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Cảm hứng thiên nhiên chan hoà với cảm hứng yêu nước tha thiết của Bác.
Bài thơ “Cảnh khuya” là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cực hay, là một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác. Giữa chốn rừng Việt Bắc tràn ngập ánh trăng, lòng Bác luôn thao thức vì nỗi nước nhà. Đó là nét đẹp riêng của bài thơ, cảm hứng thiên nhiên nhiên chan hoà trong lòng yêu nước sâu sắc. Thương dân, lo cho nước, yêu trăng… như dẫn hồn ta vào giấc mộng đẹp. Đọc thơ Bác giúp ta càng biết ơn, yêu kính Bác hơn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam. Người được biết đến không chỉ với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, mà còn với vị trí của một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Một trong số những tác phẩm nổi tiếng là bài thơ “Cảnh khuya”.
Khi đọc hai câu thơ đầu, em cảm thấy vô cùng ấn tượng trước khung cảnh thiên nhiên của vùng núi Tây Bắc trong đêm khuya được khắc họa dưới con mắt thi sĩ của Hồ Chủ tịch:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Đêm khuya nơi núi rừng hoang sơ, Người lắng nghe thấy âm thanh của tiếng suối chảy róc rách. Tiếng suối được so sánh “trong như tiếng hát” - gợi lên một âm thanh thật nhẹ nhàng, trong trẻo giống như tiếng hát vang vọng lại giữa nơi núi rừng vắng vẻ. Tiếp đến đó là khung cảnh núi rừng dưới ánh trăng. Trăng trong thơ ca vốn đã quá quen thuộc. Ta đã từng bắt gặp ánh trăng nhớ về quê hương của nhà thơ Lý Bạch:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
(Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương)
Hay vầng trăng tình nghĩa trong bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Hoặc ngay cả trong thơ Hồ Chí Minh, ánh trăng cũng vô cùng quen thuộc:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Dù là trong thơ ca cổ điển hay hiện đại, ánh trăng vẫn hiện lên thật đẹp với nhiều ý nghĩa. Nhưng có lẽ hình ảnh vầng trăng trong “Cảnh khuya” mới độc đáo nhất: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Câu thơ gợi ra hai cách hiểu cho người đọc. Hình ảnh ánh trăng chiếu xuống mặt đất xuyên qua từng tán cây, chiếu xuống cả những bông hoa rừng. Khắp không gian thiên nhiên đều ngập tràn ánh trăng. Cũng có thể hiểu rằng ở đây trăng sáng chiếu xuống mặt đất xuyên qua từng tán cây cổ thụ, khi phản chiếu xuống mặt đất tạo ra hình thù như những bông hoa. Dẫu là được hiểu theo cách nào thì thiên nhiên lúc này cũng thật đẹp. Ánh trăng đã trở thành người bạn tri kỷ của nhà thơ ngay cả nơi núi rừng hoang sơ. Bức tranh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc dưới cái nhìn của một thi sĩ được hiện lên với nét đẹp thơ mộng, và đầy hoang sơ.
Đến hai câu thơ tiếp theo, Bác đã khéo léo gửi gắm vào đó tâm trạng của mình:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà”
Khi đứng trước cảnh đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, Bác đã phải thốt lên đây là một cảnh thật hiếm có, giống như một bức tranh của một người nghệ sĩ tài hoa. Nhưng ở bức tranh thơ mộng đó, con người hiện lại lên với những nỗi niềm trăn trở. Người “chưa ngủ” có phải vì khung cảnh thiên nhiên quá đỗi thơ mộng. Điều ấy khiến cho nhà thơ qua say mê trước vẻ đẹp đó mà quên rằng đêm đã về khuya. Hay phải chăng Người “chưa ngủ” là vì “lo nỗi nước nhà”? Bác lo cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, cho cuộc sống của nhân dân. Lúc này, cần phải đặt vào hoàn cảnh sáng tác bài thơ mới hiểu hết được nguyên nhân của việc “người chưa ngủ”. “Cảnh khuya” được Bác sáng tác khi còn ở chiến khu Việt Bắc, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Cuối năm 1947, quân Pháp ồ ạt tấn công lên căn cứ Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và lãnh đạo của quân ta. Nhưng với sự đồng lòng cùng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chiến dịch Việt Bắc đã làm thất bại kế hoạch của quân địch. Như vậy, ở đây Bác chưa ngủ vì vẫn lo lắng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hai câu thơ đã khiến em thấu hiểu hơn nỗi lòng của chủ tịch Hồ Chí Minh - một con người giàu lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến.
Tóm lại, “Cảnh khuya” đối với em là một bài thơ giàu ý nghĩa. Bài thơ không chỉ khắc họa cảnh thiên nhiên dưới ánh trăng ở chiến khu Việt Bắc cũng như thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước của nhà thơ.