Nhịp chẳn trước lẻ sau trong thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật là gì? Cho ví dụ

2 câu trả lời

Thất ngôn tứ tuyệt là thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7 chữ, trong đó các câu 1,2,4 hoặc chỉ các câu 2,4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối, tức là chỉ có 28 chữ trong một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, là phân nửa của thất ngôn bát cú. Được ra đời vào thế kỉ 7 vào thời Đường, Trung Quốc

VD:THU BUỒN,NHỚ ,NỖI NIỀM,XUÂN KỶ NIỆM,TUỔI HỌC TRÒ,......

Thơ Luật có 4 thể: Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt, Ngũ Ngôn Bát Cú, Thất Ngôn Tứ Tuyệt, Thất Ngôn Bát Cú. Thất Ngôn Bát Cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng lại được các Cụ ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, trào phúng, xướng họa, thù tạc, chúc mừng quan hôn, khai bút đầu Xuân... Lúc đầu làm bằng chữ Hán, đến đời Trần, Hàn Thuyên là người đầu tiên làm bằng chữ Nôm, nên Ðường luật còn gọi là Hàn Luật. Từ đó thể Thất Ngôn Bát Cú trở thành độc tôn trên thi đàn, ngay trong các kỳ thi cũng bắt thí sinh làm một bài. Sau đây xin trình bày khái quát về bố cục và luật lệ căn bản của thể thơ này:

I. BỐ CỤC: Một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có 4 phần:

1- Mạo: là mào đầu (vào bài) còn gọi là Ðề, gồm:

- Phá đề (câu 1) nghĩa là mở ra, giới thiệu tựa đề.

- Thừa đề (câu 2) nghĩa là chuyển xuống.

2- Thực hay Trạng: gồm câu 3 + 4: giải thích, khai triển tựa đề.

3- Luận: gồm câu 5+6: bàn luận ý nghĩa của bài.

4- Kết: gồm câu 7+8: tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ tình cảm, thái độ.

II. LUẬT LỆ CĂN BẢN:

1- Vần: là bộ phận chủ yếu của âm tiết trong tiếng Việt là âm tiết trừ đi phụ âm đầu nếu có.

Ví dụ: "tà, hoa, nhà, gia, ta" trong bài Qua Ðèo Ngang có cùng một vần "a".

Vần có vần bằng, vần trắc, độc vận, ép vận. Trong thất ngôn bát cú chỉ gieo 1 vần, gọi là độc vận rơi vào 5 chữ cuối của 5 câu: 1, 2, 4, 6, 8 thường là vần bằng, ít khi dùng vần trắc, 5 chữ này tránh trùng nhau, phải hiệp vận cho đúng nếu gieo sai gọi là lạc vận, gieo vần không sát gọi là gượng ép.

Ghi chú:

Vần có cước vận (vần ở cuối câu), và yêu vận (vần ở lưng câu).

Vần điệu: Ðiệu là đều đặn, là số chữ đều đặn trong mỗi câu thơ, như điệu thất ngôn mỗi câu 7 chữ, điệu lục bát gồm 1 câu 6, 1 câu 8. Riêng điệu ca trù mỗi câu bao nhiêu chữ cũng được, trừ câu chót bắt buộc 6 chữ.

Nhịp điệu: Nhịp là cách ngắt đoạn đều đặn trong câu thơ. Nhịp điệu là cái dáng đi khi mau khi chậm trong thơ.

Tiết tấu: tiết là đốt, là đoạn ngắn, tấu là đánh nhạc, là đọc cao lên.

Thi nhạc (gồm vần, điệu, nhịp, tiết tấu): Nhà thơ dùng âm thanh (tượng thanh), dùng sự thay đổi của của âm, độ cao thấp của thanh, sự đều đặn của vần điệu nhịp điệu, sự nhịp nhàng của tiết tấu... làm cho bài thơ đọc lên như một bản nhạc gọi là thi nhạc.

2. Ðối: là phép đặt 2 câu thơ đối nhau gồm có:

Ðối chữ: bằng đối trắc, trắc đối bằng, danh từ đối danh từ, động từ đối động từỳ...

Ðối ý: ví dụ cảnh dưới núi đối cảnh bên sông, cảnh động đối cảnh tĩnh như trong 2 câu thực của bài Qua Ðèo Ngang.

Trong thể thơ này, 2 câu thực phải đối nhau, 2 câu luận phải đối nhau.

Sau đây xin mời quý vị thưởng thức những cặp đối thần sầu của các thi sĩ tiền bối:

* Thi hào Nguyễn Trãi:

- Hương cách gác vân thu lạnh lạnh

Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh

- Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng

Chè tiên nước kín nguyệt đeo về

- Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn

Lòng người quanh nữa nước non quanh

* Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:

- Năm thì mười họa chăng hay chớ

Một tháng đôi lần có cũng không

- Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm

Cầm bằng làm mướn, mướn không công

(Làm Lẽ)

("Cố đấm ăn xôi" và "Làm mướn không công" là 2 câu tục ngữ)

- Duyên thiên chưa thấy nhô đầu trọc

Phận liễu sao đà nảy nét ngang

(Không Chồng Mà Chửa)

(Trong Hán tự, chữ THIÊN nếu kéo nét phẩy nhô lên thì thành ra chữ PHU là chồng. Chữ LIỄU nếu thêm nét ngang thì thành ra chữ TỬ là con)

- Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm

Một lạch đào nguyên suối chửa thông

(Thiếu Nữ)

- Chày kình tiểu để suông không đấm

Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo

(Chùa Quán Sứ)

("suông không đấm" và "đếm lại đeo" đều có nghĩa nói lái rất tục)

- Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe

Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha

(Sư Hổ Mang)

- Gió giật sườn non kêu lắc cắc

Sóng dồn mặt nước vỗ long bong

(Kẽm Trống)

* Thi sĩ Nguyễn Khuyến:

- Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt

Làn ao lóng lánh ánh trăng loe

- Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió sẻ đưa vèo

- Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

* Thi sĩ Trần Tế Xương:

- Học đã sôi cơm nhưng chửa chín

Thi không ngậm ớt thế mà cay

- Ðì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột

Om sòm trên vách bức tranh gà

- Chí cha chí chát khua giày dép

Ðen thỉ đen thui cũng lụa là

- Van nợ lắm khi tràn nước mắt

Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi

- Sỉ khí rụt rè gà phải cáo

Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi

- Một tuồng rách rưới con như bố

Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng

- Ví cho thi đỗ làm quan lớn

Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu

- Tiễn chân cô mất hai đồng lẻ

Sờ bụng thầy không một chữ gì

("Gà phải cáo" và "Cố đấm ăn xôi" là 2 câu tucỳ ngữ)

3. Luật: tức thanh luật là quy tắc xếp đặt thanh bằng (B) thanh trắc (T) cho mỗi chữ trong một câu thơ theo lệ:

"Nhất tam ngũ bất luận": bất luận là không ràng buộc,

"Nhị tứ lục phân minh": phân minh là rõ ràng bắt buộc đồng thời phải tuân theo thanh: "nhị bằng tứ trắc lục bằng", hay ngược lại: "nhị trắc tứ bằng lục trắc"

Câu hỏi trong lớp Xem thêm