2 câu trả lời
Đáp án:
1. Cấu tạo ngoài:
- Cơ thể hình ống, dài khoảng 25cm.
+ Con đực: nhỏ, ngắn, đuôi cong.
+ Con cái: to, dài.
- Lớp vỏ cutin ngoài cơ thể giúp giun đũa chống dịch tiêu hóa của vật chủ.
2. Cấu tạo trong và di chuyển:
- Thành cơ thể có lớp biểu bì và cơ dọc phát triển.
- Có khoang cơ thể chưa chính thức:
+ Ống tiêu hóa: miệng, ruột và hậu môn.
+ Tuyến sinh dục: dài cuộc khúc.
* Di chuyển:
- Do cơ thể chỉ có lớp cơ dọc phát triển nên di chuyển hạn chế.
- Cơ thể cong và duỗi ra giúp giun đũa chui rúc trong môi trường kí sinh.
3. Dinh dưỡng:
- Hầu phát triển giúp hút chất dinh dưỡng vào nhanh và nhiều.
4. Sinh sản:
* Cơ quan sinh sản:
- Giun đũa phân tính, cơ quan sinh dục dạng ống.
+ Con đực: 1 ống.
+ Con cái: 2 ống.
- Thụ tinh trong, con cái đẻ nhiều trứng, lẫn vào phân người.
Trứng giun theo phân ra ngoài, gặp ẩm và thoáng khí, phát triển thành dạng ấu trùng trong trứng. Người ăn phải trứng giun (qua rau sống, quả tươi, …), đến ruột non, ấu trùng chui ra, vào máu, đi qua tim, gan, phổi, mật rồi lại về ruột non lần thứ 2 mới chính thức kí sinh ở đấy.
Giun đũa trưởng thành
Giun đũa là một loại giun tròn có kích thước lớn. Giun cái dài 20 - 30 cm, giun đực 15 - 20 cm, thân hình ống, màu trắng sữa hay hồng nhạt.
Đầu: miệng có 3 môi bao quanh, xếp cân đối, 1 môi lưng, 2 môi bụng, ở giữa là miệng 3 cạnh.
Đuôi: ở mặt bụng có những núm cảm giác, đặc biệt ở giun đực nhiều hơn.
Bộ phận tiêu hoá: có thực quản, ruột, hậu môn.
Bộ phận bài tiết: gồm 2 ống chạy dọc 2 bên thân, đổ vào 1 lỗ ở phía đầu, mặt bụng.
Bộ phận thần kinh: có 1 vòng và những dây thần kinh.
Bộ phận sinh dục: giun cái gồm tử cung, túi chứa tinh, hai ống dẫn trứng, buồng trứng. Toàn bộ là những ống soắn vào nhau, ở giữa thân, tập trung vào 1 ống có vách dày là âm đạo, âm đạo mở ra mặt bụng, chỗ tiếp giáp 1/3 đoạn trước và giữa thân. Giun đực có tinh hoàn hình ống, tiếp theo là ống dẫn tinh, ống phụt tinh, đổ ra phía sau lỗ hậu môn.
Trứng giun đũa:
Hình trái xoan, kích thướcc: 45 - 75 x 35 - 58 µm. Có 5 lớp vỏ, lớp ngoài cùng xù xì là lớp albumine có tác dụng chống va chạm, nhuộm màu vàng của phân. Ba lớp trong nhẵn, cứng, chống tác động cơ học,... Lớp trong cùng có cấu trúc sợi, chỉ để lọt qua nước giữ lại các chất khác, có chức năng bảo vệ trứng chống lại các hoá chất. Trứng giun đũa không thụ tinh đa dạng, dài hơn, không cân đối, kích thước khoảng 90 x 40 µm, chiếm 15% tổng số trứng.
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC.
.
Cả giun đũa đực, giun đũa cái đều sống kí sinh ở trong ruột non của người, ăn các chất trong ruột (dưỡng chấp), giun cái đẻ khoảng 240.000 trứng/ngày. Trứng theo phân ra ngoại cảnh, ở ngoại cảnh trứng cần các yếu tố để phát triển: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, không khí,... Sau một thời gian ở ngoại cảnh, phôi phát triển thành ấu trùng.
Ở điều kiện ngoại cảnh thích hợp (đất xốp, nhiệt độ ẩm độ thích hợp), trứng giun đũa có thể sống được 5 - 6 năm thậm chí có thể tới 9 - 10 năm. Nhưng ở điều kiện không thuận lợi trứng giun đũa chỉ tồn tại được một thời gian ngắn.
Khi người nuốt phải trứng đã đến giai đoạn lây nhiễm, chất dịch tiêu hoá sẽ tác dụng lên vỏ trứng và giải phóng ra ấu trùng. Ấu trùng giun đũa chui qua thành ruột vào hệ thống tuần hoàn, theo tĩnh mạch cửa lên gan, ở gan 3 - 4 ngày rồi theo tĩnh mạch trên gan tới tĩnh mạch chủ vào tim phải. Từ tim phải ấu trùng theo động mạch phải vào phổi, chui qua thành mạch máu vào phế nang. Trong thời gian ở phổi ấu trùng phát triển lớn dần, thoát vỏ 2 lần, lần đầu sau 5 ngày, lần thứ hai từ ngày thứ 10 trở đi, rồi phát triển nhanh tại phế nang, có kích thước dài tới 1 - 2 mm, ấu trùng theo các phế quản lên khí quản, lên hầu, rồi theo thực quản xuống ruột non, cư trú ở đó, lột xác 4 lần, phát triển thành giun trưởng thành ở đó. Trong thời gian di cư, ấu trùng ăn máu. Thời gian kể từ khi trứng vào cơ thể, đến khi thành giun trưởng thành đẻ trứng mất khoảng 60 - 70 ngày. Giun đũa sống trong người được khoảng 12 - 18 tháng.
Tóm lại: giun đũa A. lumbricoides chỉ có một vật chủ. Trứng giun cần một thời gian phát triển ở môi trường ái khí để hoàn thành vòng đời. Khi di cư, ấu trùng có thể lạc chỗ qua các mao mạch phổi rồi về tim, qua vòng tuần hoàn lớn và có thể bị giữ lại ở các bộ phận, các mô của cơ thể (ví dụ: ở hạch bạch huyết, lách, não, tủy). Trong quá trình di cư ấu trùng có thể gây những phản ứng dị ứng cấp tính hoặc có thể tập trung ở thận rồi vào nước tiểu, ít khi qua được nhau thai vào bào thai. Giun trưởng thành kí sinh ở ruột non, hút thức ăn đã được tiêu hoá. Giun rất ít bám vào thành ruột. Để chống lại nhu động ruột, giun cong mình tựa vào thành ruột và hay thay đổi vị trí.
Đôi khi không dùng thuốc gì cũng có giun ra theo phân, là do giun già quá một năm, không sống lâu được ở trong người.
VAI TRÒ Y HỌC.Ấu trùng giun đũa:
Trong thời gian di cư trong cơ thể, ấu trùng giun có thể gây những tác hại ở nơi chúng cư trú. Khi tới phổi chui qua mạch máu vào phế nang, làm chảy máu, đồng thời gây viêm các tổ chức nhỏ xuất huyết, gây ho, đau ngực, có thể ho ra đờm có vệt máu. Kèm theo các triệu trứng quá mẫn, nổi ban sốt nhẹ, bạch cầu ái toan tăng cao. Trong thời kì này ấu trùng gây hội chứng Loeffler, biểu hiện lâm sàng giống như lao: ho khan, đau ngực, bạch cầu ái toan tăng cao có thể tới 40% hoặc hơn. Chụp X quang tim - phổi có hình ảnh thâm nhiễm giống lao, nhưng hình ảnh này tự mất đi sau 1- 2 tuần mà không cần điều trị gì. Hội chứng Loeffler thường gặp trong cộng đồng nhiễm giun đũa tái phát hoặc nhiễm theo mùa; nhưng hiếm thấy ở nơi có sự nhiễm quanh năm.
Giun trưởng thành:
Giun trưởng thành chiếm một phần thức ăn của cơ thể, làm suy yếu cơ thể nếu số lượng giun nhiều. Nhưng nếu số lượng giun ít, không thấy triệu chứng gì rõ rệt. Đôi khi thấy buồn nôn, ăn không tiêu, đau bụng vặt. Ở trẻ em hay gặp những triệu chứng: gầy còm, bụng trướng, phân nát, biếng ăn, kinh giật, ứa nước bọt. Đó là triệu chứng nhiễm độc thần kinh do chất độc của giun gây nên. Các chất allergen của giun đũa gây phản ứng quá mẫn ở phổi, da, niêm mạc mắt, niêm mạc ống tiêu hóa...
Có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của giun đũa với tiêu hóa mỡ và đạm của người. Tác giả Venkatachalam (1953), nghiên cứu trên các trẻ em nhiễm giun đũa, cường độ nhiễm trung bìn 26 giun/người, chế độ hàng ngày 30 - 50g protein, bị mất 4g/ngày, chưa kể giun đũa còn gây rối loạn chuyển hóa protein. Tác giả Tripathy (1971) thấy 7,2% nitrogen và 13,4% chất mỡ trong khẩu phần ăn bị mất do giun. Nhiều nghiên cứu cho thấy giun đũa chiếm một lượng vitamin A đáng kể, gây rối loạn chuyển hóa mỡ, thiếu hụt pyridine, retinol, vitamin C, giảm hấp thu các chất dinh dưỡng, làm cơ thể vật chủ kém phát triển, suy giảm miễn dịch.
Giun trưởng thành di chuyển vị trí: do số lượng nhiều, do pH ở ruột thay đổi hoặc do thuốc làm giun bị kích động, do người bị sốt cao, do ăn các chất cay, chua (ớt, hạt tiêu...), do gây mê, do điều trị không đúng, hoặc khi chỉ có một giun hay nhiều giun cùng giới (đực hoặc cái). Khi di chuyển vị trí, giun hay có khuynh hướng chui vào các lỗ ống mật, ống tụy gây những cơn đau bụng dữ dội; đôi khi gây biến chứng áp xe gan. Những biến chứng cơ học do giun đũa, có thể thống kê theo thứ tự tần số giảm dần là: tắc ống mật, viêm ruột thừa, tắc ống tụy, nôn ra giun, tắc ruột, thủng ruột. Giun có thể chui lên phần trên đường hô hấp, vào cả vòi Eustache. Nhiều biến chứng có thể dẫn đến tử vong.
Khi điều trị, giun bị chết nát trong ruột, chất độc của giun có thể gây nhiễm độc nguy hiểm, thường gặp ở trẻ em. Khi điều trị giun cần dùng thuốc tẩy để tống ngay giun ra ngoài.