Bài 2:Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Qua đèo Ngang. No copy(help,thứ 4 mik thi rồi)

2 câu trả lời

 

Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa. Dưới thời vua Minh Mạng, bà từng được mời vào cung để dạy học cho các công chúa và cung phi. Trong một dịp từ Thăng Long vào kinh đô Phú Xuân nhậm chức, Bà Huyện Thanh Quan đã đi qua Đèo Ngang. Trước cảnh hoang sơ, heo hút của con đèo ấy, bà đã tức cảnh mà viết lên bài thơ “Qua đèo ngang” để thể hiện nỗi nhớ nước, thương nhà cùng nỗi buồn sầu, cô đơn của mình.

   Với cách mở đầu tự nhiên, hai câu thơ đề đã khái quát lại những ấn tượng của nhà thơ về thời gian và không gian của Đèo Ngang. Tuy nhiên, với nhà thơ, việc lựa chọn miêu tả những khoảnh khắc, những cảnh vật thiên nhiên ấy không phải là đơn thuần, ngẫu nhiên mà nó còn là các yếu tố nghệ thuật để thể hiện tâm trạng.

“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa”.

   Đặt chân tới đèo ngang vào buổi hoàng hôn “bóng xế tà”. Đây là thời điểm đặc biệt nhất trong một ngày, khi ranh giới giữa ánh sáng và màn đêm chỉ còn là khoảng mờ. Hình ảnh “bóng xế tà” vừa gợi thời gian vừa gợi một nét buồn mênh mênh, tiếc nuối về một ngày sắp tàn. Ở khoảnh khắc ấy, con người rất dễ nảy sinh những cảm xúc cô đơn, buồn sầu, đặc biệt với những người kẻ tha hương đến với vùng đất xa lạ như Bà Huyện Thanh Quan thì những tâm trạng ấy càng trở nên thấm thía. Trong cảnh chiều tà, bức tranh phong cảnh Đèo Ngang được nhà thơ phác họa bằng những nét vẽ thật đẹp, hùng vĩ, hoang sơ. Với biện pháp liệt kê, nhà thơ đã gợi ra một loạt các hình ảnh quen thuộc của núi rừng đó là cỏ cây, hoa lá, đá núi. Điệp từ “chen” gợi lên một khung cảnh thiên nhiên xanh tươi, rậm rạp giàu sức sống, cỏ cây hoa lá chen chúc nhau dày đặc không hàng lối, không trật tự. Cảnh tuy hoang sơ ngút ngàn nhưng lại trống vắng, hiu quạnh. Có cỏ cây, có hoa lá nhưng chúng chỉ mải miết đi đua nhau vươn lên tìm sự sống mà quên sứ mệnh tỏa sắc, khoe hương của mình. Ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên ấy càng dễ khiến cho lòng người nảy sinh tâm trạng, không gian càng rộng lớn hoang sơ con người càng trống trải, cô đơn, không gian càng trống vắng lòng người càng quạnh hiu.

   Hai câu thơ thực, vẫn là bức tranh thiên nhiên núi rừng Đèo Ngang, nhưng lúc này đã có sự xuất hiện của hình bóng con người:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

   Với nghệ thuật đảo cấu trúc câu, tác giả đã nhấn mạnh ấn tượng về hình ảnh cuộc sống của con người dưới chân đèo. “Lom khom”, “lác đác” là những từ láy giàu sức gợi hình gợi cảm được đặt lên đầu câu gợi dáng vẻ vất vả mệt mỏi của người tiều phu sau một ngày dài làm việc cùng sự thưa thớt, ít ỏi của những ngôi nhà, khu chợ. Ngỡ rằng với sự xuất hiện của con người, không gian Đèo Ngang trở nên ấp áp gần gũi hơn, thế nhưng dáng vẻ lom khom của những chú tiều phu cùng sự thưa thớt vắng vẻ của những ngôi nhà, ngôi chợ lác đác như mờ đi trong không gian hùng vĩ càng khiến cảnh vật trở nên vắng vẻ, lạnh lẽo. Hai câu thực đối rất chỉnh cả về âm thanh, từ loại và cấu trúc câu qua đó đã tạo nhịp điệu cân đối cho câu thơ. Không gian càng thưa thớt, vắng vẻ, heo hút càng khiến lòng người càng trở nên quạnh hiu, cô đơn, buồn sầu.

   Đến hai câu luận, nhà thơ đã bộc lộ tâm trạng của mình qua những âm thanh thê lương của tiếng chim:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

   Bức tranh Đèo Ngang không chỉ có thiên nhiên cỏ cây hoa lá, có hình bóng con người mà còn có cả âm thanh của tiếng chim. Giữa cảnh rừng núi mênh mang, tiếng chim cuốc cuốc, đa đa vang lên khắc khoải, da diết càng làm cho cảnh vật trở nên buồn hơn. Thi sĩ lắng nghe âm thanh nhưng đó không phải tiếng kêu của chim nữa mà là tiếng lòng của con người. Với cách chơi chữ đầy tinh tế, cùng việc sử dụng hai điển tích nổi tiếng của Trung Hoa về chim quốc và chim đa đa để nói về nỗi nhớ nước, sự xót xa, tiếc nuối về một thời kì vàng son của triều đại cũ nay không còn, nỗi thương nhớ nhà bởi bà đang phải rời xa tổ ấm yên vui để đến mảnh đất Kinh thành xa lạ. Hai câu thơ cũng sử dụng cấu trúc đảo trật tự cú pháp câu, qua đó nhấn mạnh sâu sắc tâm trạng buồn sầu, nhớ thương của tác giả qua tiếng chim kêu.

   Hai câu thơ kết vừa đóng lại bức tranh cảnh đèo ngang vừa khép lại tâm trạng của con người:

“Dừng chân nghỉ lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

   Một lần nữa phong cảnh hùng vĩ, rợn ngợp của Đèo Ngang lại nổi lên trong bức tranh, Trời mây, non nước như hòa lại làm một trong vẻ hoang sơ, mênh mông. Vẻ đẹp của rừng núi khiến nhà thơ không nỡ chối từ, phải dừng chân nghỉ lại để thưởng thức phong cảnh. Thế nhưng, trước cảnh đẹp ấy lại càng khiến lòng người trào dâng nỗi buồn, cô đơn, thổn thức mãnh liệt. Hai chữ ta xuất hiện trong câu thơ để nhấn mạnh tâm trạng buồn, cô đơn tuyệt đối của nhà thơ. Giữa không gian rộng lớn ngút ngàn chỉ có một mình bà ở đó đối diện với nỗi cô đơn, trống trải của mảnh tình riêng. Hai câu thơ như một tiếng thở dài đầy chua xót cho nỗi lòng thầm kín, ngập tràn nhưng chẳng biết san sẻ cùng ai.

   Với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, biện pháp tả cảnh ngụ tình, các thủ pháp điệp, đối, đảo trật tự cú pháp câu, bài thơ đã thể hiện sâu sắc nỗi buồn sầu, cô đơn thầm lặng của một người phụ nữ hoài cổ, nhớ nước thương nhà trước không gian Đèo Ngang hùng vĩ, hoang sơ. Qua bài thơ ta thêm hiểu biết và yêu thắng cảnh quê hương cùng với đó là niềm trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn của Bà Huyện Thanh Quan.

@danggiabao0

Trong dòng văn thơ cổ Việt Nam có hai nữ thi sĩ được nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và bà Huyện Thanh Quan. Nếu như thơ văn của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì phong cách thơ của bà Huyện Thanh Quan lại trầm lắng, sâu kín, hoài cảm… Chẳng vậy mà khi đọc bài thơ “Qua Đèo Ngang ” người đọc có thể thấu hiếu bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu sắc, kín đáo của nhà thơ .

        Nhà thơ mở đầu bài thơ bằng việc tả cảnh đèo nhìn từ trên cao. Khi bóng chiều đã xế, có đá núi, cây rừng, có bóng tiều phu di động, có những mái nhà ven sông… mà sao heo hút, đìu hiu đến nao lòng.

Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa…

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

        Cảnh gợi lên trong tâm hồn tình cảm của con người giọt buồn, giọt nhớ …. Trời đã xế chiều, bóng đã dần tàn … cảnh tượng ấy rất phù hợp với tâm trạng của bà Huyện Thanh Quan lúc này. Đó là nỗi u hoài, gợi buồn trước sự đổi thay của xã hội. Thế nên nhà thơ Nguyễn Du cũng đã nói :

“Cảnh nào cảnh chẳng gieo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ”

        Cảnh vật ở đây cũng thật sinh động đấy: Có cả cỏ với cây điểm thêm lá và hoa nhưng tất cả lại được hiển hiện trong hoạt động “chen chúc”. Đứng trước cảnh tượng đó khiến cho con người càng gợi lên sự hoang mang, khiếp hãi. Cảnh vật thì bao la làm cho tâm hồn con người đã hiu quạnh, đơn chiếc tăng thêm sự cô đơn, vắng lặng gần như hoàn toàn trống trải. Nhà thơ quan sát tổng thể cảnh nơi đây. Con người xuất hiện. Nhưng con người càng tô đậm thêm sự buồn vắng. Chính cảnh tượng ấy càng tạo cho nhà thơ những cảm giác hiu quạnh, tẻ nhạt, trống trải.

        Tức cảnh sinh tình:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

        Nỗi nhớ thương, đau đớn đến tận cùng của lòng người với nhà, với nước, với thân phận cô đơn của mình lại được cộng hưởng bởi những âm vang trong tiếng kêu khắc khoải không dứt của chim cuốc giữa đỉnh cao mây núi, nhìn lên chỉ thấy trời cao, nhìn xa chỉ thấy mây nước vời vợi…

        Nhà thơ đã lắng nghe âm thanh của cảnh Đèo Ngang. Nhưng đó không phải là tiếng kêu của loài chim cuốc, chim đa đa. Mà nói cho đúng đó chính là tiếng lòng của nhà thơ. Nhà thơ mượn hình ảnh loài chim cuốc muốn gợi sự tiếc nuối về quá khứ, triều đại nhà Lê thời kì vàng son, hưng thịnh nay không còn nữa. Gia tộc của nhà thơ vốn trung thành với nhà Lê nhưng không thể nào theo một chế độ đã thối nát. Vả lại đây là lần đầu tiên có lẽ nhà thơ xa nhà nên “cái gia gia” gợi nỗi thủy chung, thương nhớ quê nhà. Cảnh vật vắng lặng, đơn chiếc, xót xa , buồn bã. Càng làm cho nhà thơ mỗi lúc nỗi buồn hoài cảm càng tăng.

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

        Cả thân xác lẫn tâm linh của nhà thơ hoàn toàn tĩnh lặng. Nhà thơ cảm nhận thế giới thiên nhiên nơi đây thật rộng khoáng, bao la. Trong khi đó, con người chỉ là “một mảnh tình riêng”. Con người mang tâm trạng cô đơn, trống vắng hoàn toàn. Thiên nhiên với con người hoàn toàn đối lập với nhau càng làm nổi bật tâm trạng cô đơn, phủ nhận thực tại của nhà thơ.

        “Qua Đèo Ngang” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Với cách sữ dụng ngôn từ trang nhã nhưng rất điêu luyện đã giúp người đọc thấy được bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu kín. Cảnh Đèo Ngang thật buồn vắng phù hợp với tâm trạng con người cô đơn hoài cảm. Từ bài thơ, cảm thụ tâm cảm của nhà thơ, ta càng cảm thông nỗi lòng của tác giả và kính phục tài năng thi ca của bà Huyện Thanh Quan.