Bài 11 phần 2: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075 - 1077) Bài 2 (trang 43 sgk Lịch sử 7): Vai trò của các dân tộc ít người trong cuộc kháng chiến chống Tống.

2 câu trả lời

- Khi quân Tống mới có âm mưu xâm lược Đại Việt: Các tù trưởng được lệnh và tiến hành chiêu mộ binh lính đánh trả các cuộc quấy phá, làm thất bại âm mưu dụ dỗ của nhà Tống.

- Khi nhà Lý chủ động tiến công để phòng vệ: Các tù trưởng Thân Cảnh Phúc, Tông Đản chỉ huy một dạo quân là những dân binh miền núi đánh vào châu Ung (Quảng Tây).

- Khi cuộc kháng chiến bùng nổ: Các tù trưởng dân tộc ít người ở gần biên giới Việt - Tống đã cho quân mai phục những vị trí chiến lược quan trọng.

=> Dưới sự lãnh đạo tài tình của Lý Thường Kiệt đã đoàn kết được lực lượng toàn dân (trong đó các dân tộc ít người đóng góp một phần vô cùng quan trọng), đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Tống một cách vẻ vang.

Bài 11: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075 - 1077):

I - Giai đoạn thứ nhất (1075)

  1. Nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta:

* Tình hình nhà Tống:

- Tình hình nhà Tống gặp phải những khó khăn chồng chất . Ngân khố cạn kiệt, tài chính khốn đốn, nhân dân thì đói khổ.

- Bên ngoài 2 nước Liêu - Hạ quấy nhiễu

* Giải quyết khó khăn:

- Nhà Tống tiến hành chiến tranh để xâm lược Đại Việt

* Âm mưu:

- Nhà Tống xúi dục Cham-Pa đánh từ phía nam lên, phía bắc thì ngăn cản việc buôn bán đi lại của nhân dân 2 nước, dụ dỗ các tù trưởng người Việt

  1. Nhà Lý chủ động tiến công để phòng vệ:

- Nhà Lý chủ động đối phó với nhà Tống, cử Lý Thường Kiệt làm tổng chỉ huy quân đội

- Tuyển chọn binh lính, sẵn sàng chiến đấu

- Phong chức tước cho các tù trưởng, đối phó với quân Tống ở phía Bắc, tiến đánh Cham-Pa

* Diễn biến:

- Tháng 10/1075 : Lý Thường Kiệt cùng với Tông Đản và Thân Cảnh Phúc chỉ huy 10 vạn quân đánh vào đất Tống

- Quân bộ đánh vào Châu Ung

- Quân thúy đánh vào Châu Khâm và Châu Liêm

- Tiến đánh thành Ung Châu

*Kết quả:

- Sau 42 ngày đêm chiến đấu ta đã hạ được thành Ung Châu . Ta nhanh chóng rút quân về nước, xây dựng phòng tuyến chuẩn bị lực lượng kháng chiến

*Ý nghĩa:

- Làm chậm bước tiến của nhà Tống, đẩy chúng vào thế hoang mang, bị động

  1. Giai đoạn thứ hai (1076 - 1077)
  2. Kháng chiến bùng nổ:

*Chuẩn bị cuộc kháng chiến:

- Lý Thường Kiệt cho ráo riết chuẩn bị bố phong và mai phục quân Tống, ở những vị trí chiến lược quan trọng

- Thuỷ binh đóng ở Đông Kênh do Lý Kế Nguyên chỉ huy

- Bộ binh do Lý Thương Kiệt chỉ huy, được bố trí ở dòng sông Như Nguyệt

*Diễn biến:

- Vào cuối năm 1076 quân Tống gồm: 10 vạn binh, 1 vạn ngựa, 20 vạn quân phu tiến vào nước ta

- Tháng 1/1077: Quân Tống đã vượt cửa ải Nam Quan

- Lý Thường Kiệt cho đánh nhiều trận nhỏ, làm cho quân địch phải đóng tại bờ Bắc sông Như Nguyệt

- Quân thuỷ do Lý Kế Nguyên chỉ huy, đã liên tiếp đánh 10 trận nhỏ => ngăn chặn bước tiến của quân thuỷ.

  1. Cuộc chiến đấu trên phòng tuyến Như Nguyệt:

*Diến biến:

- Quân Tống bắc cầu phao, đóng bè lớn, ào ạt tiến qua sông, đánh vào phòng tuyến của ta

- Ta mở cuộc tấn công lớn, đẩy chúng về phía bờ Bắc

- Cuối mùa xuân năm 1077: Lý thường Kiệt bất ngờ mở cuộc tấn công vào trận tuyến của địch

*Kết quả:

- Quân Tống thua to, rơi vào tình thế khó khăn, tuyệt vọng

- Lý Thường Kiệt quyết định giảng hoà, cho quân Tống rút về nước

*Nguyên nhân thắng lợi:

- Nhờ có tinh thần đoàn kết, toàn dân

- Sự chỉ huy tài tình của Lý Thường Kiệt

*Ý nghĩa lịch sử:

- Là chiến thắng tuyệt vời, trong lịch sử trống quân xâm lược của quân và dân Đại Việt

- Buộc nhà Tống phải từ bỏ mộng xâm lược nước ta

- Củng cố nền độc lập của dân tộc

Câu hỏi trong lớp Xem thêm