(1). Ta nói người Hà Nội tài hoa cũng nhằm chỉ chung trí tuệ thông minh, sức lao động cần mẫn, sáng tạo của người dân Thủ đô. Không có việc gì khó mà họ không học được, làm được. Còn thanh lịch, văn minh là bản sắc đặc trưng của người Hà Nội. (2). Thanh lịch, văn minh mang nghĩa rất rộng, một thứ nếp sống bao quát trên nhiều mặt: Ăn mặc, ăn ở, ăn làm, ăn chơi, ăn học, ăn uống, ăn nói… cho đến giữ gìn nếp nhà Hà Nội; phép lịch sự thân thiện, trung thực, khách quan rất quan trọng trong giao tiếp và quan hệ tình cảm, đạo lí giữa người với người. “Ăn” ở đây theo phong cách nói đệm dân gian, không theo nghĩa đen như trong ăn uống. Thanh lịch chỉ là phong cách ứng xử, giao tiếp nền nã, mềm dẻo, văn minh, tế nhị… lối sống hào hoa phong nhã của người kinh thành kẻ chợ; chỉ nhìn vào trang phục, dáng đi, nghe tiếng nói là nhận ra ngay. (3). Tiếng nói Hà Nội tiêu biểu cho tiếng nói của dân tộc Việt Nam.Người Hà Nội không quen cách nói cộc lốc, trống không, xách mé, trịch thượng, chỏng lỏn, ngoa ngoắt, thô tục. Họ biết chọn những từ ngữ thanh thoát để nói những điều xấu nhất, bẩn nhất, thói quen tuỳ tiện nhất mà không làm “nhơ tai ” người nghe. Trong xưng hô giữ trật tự kỉ cương, trọng già quý trẻ, không tự đề cao mình cũng như không xun xoe, xu nịnh. Ai giúp đỡ việc gì biết cảm ơn, làm điều sai, lỡ va chạm biết xin lỗi. Không “đao to búa lớn” nơi công cộng, chốn chợ búa, khéo léo mềm mỏng dàn xếp mọi xích mích, tranh chấp không để “bé xé ra ro”.Một sự nhẫn là chín sự lành, nhẫn nhịn chứ đâu phải nhẫn nhục.Nói là làm, giữ chữ tín với khách hàng, tự trọng mình và tôn trọng người. (4). Trong trang phục, người Hà Nội ưa gọn gàng, trang nhã, chỉnh tề. Họ biết diện, biết làm đẹp kín đáo mà không phô trương, khoe khoang lố lăng. Họ bảo tồn chất dân tộc phương Đông, lại biết cách tân lành mạnh, không thủ cựu, không hở hang, phơi bày tự do lộ liễu như người phương Tây. (5). Ta sẽ còn một thủ đô thanh lịch, hào hoa khi mỗi người biếttự gìn giữ nếp sống, nếp nhà Hà Nội. Bởi thế những người công dân Hà Nội dù là con cháu của người Hà Nội gốc hoặc những người tứ xứ hội tụ về đã sống trên mảnh đất nghìn năm văn hiến hãy tự giác, tự nguyện tìm hiểu, học hỏi, rèn luyện để trở thành người Hà Nội, mang phong cách sống Hà Nội, cho xứng đáng là thế hệ nối tiếp dòng chảy lịch sử, xứng đáng với truyền thống anh hùng, tài hoa, thanh lịch, văn minh của ông cha xưa và nay. Xây dựng Thủ đô trái tim của đất nước ngày càng to đẹp, đàng hoàng, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. (Thanh lịch, văn minh, hào hoa là văn hóa của người Hà Nội, Phạm Như Hùng, bao Giaoducthoidai) a. Đây có phải Văn bản Nghị luận không? Vì sao? b. Tác giả đề xuất ý kiến gì? Những dòng nào, câu nào, thể hiện ý kiến đó? Để thuyết phục người đọc, tác giả nêu những lí lẽ và dẫn chứng nào? c. Chỉ ra bố cục của văn bản? d. Bài nghị luận này có nhằm giải quyết vấn đề có trong thực tế không? Em có tán thành ý kiến của bài viết không? Vì sao?

2 câu trả lời

a) Có. Vì Văn nghị luận là loại văn được viết nhằm xác lập cho người nghe, người đọc một tư tưởng, quan điểm nào đó. Văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục. Những tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị luận phải hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống, xã hội thì mới có ý nghĩa
Và bài văn trên có đủ các yếu tố cần có để là văn nghị luận.

b) Ý kiến đề xuất của tác giả: cần chống lại những thói quen xấu và tạo ra những thói quen tốt trong đời sống xã hội.

    Ý kiến đó được thể hiện trong các câu sau đây: đầu đề bài văn; “Cho nên mỗi người, mỗi gia đình hãy tự xem lại mình để tạo ra nếp sống đẹp, văn minh cho xã hội”.

    Để thuyết phục người đọc, tác giả nêu ra các lí lẽ sau đây:

     - Có thói quen tốt và thói quen xấu; 

     - Có người biết phân biệt tốt và xấu, nhưng vì đã thành thói quen nên rất khó bỏ, khó sửa;

     - Tạo được thói quen tốt là rất khó, nhưng nhiễm thói quen xấu thì dễ.

    Các dẫn chứng kèm theo:

      - Thói quen tốt: luôn dậy sớm, luôn đúng hẹn, giữ lời hứa, luôn đọc sách...

      - Thói quen xấu: hút thuốc lá, hay cáu giận, mất trật tự, mất vệ sinh (gạt tàn thuốc ra nhà, vứt rác bừa bãi), ném cả mảnh thủy tinh vỡ ra đường làm người khác bị thương...

    c) Bài văn nghị luận này nhằm giải quyết một vấn đề có thực trong xã hội: đó là vấn đề ăn  mất vệ sinh, không có ý thức thu gom rác vào một chỗ làm ô uế môi trường sống. 

     Ta thấy vấn đề tác giả nêu ra là đúng đắn. Mỗi người đều phải suy nghĩ để bỏ thói quen xấu, tạo nên các thói quen tốt.  

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?

a) Có.

→ Vì Văn nghị luận là loại văn được viết nhằm xác lập cho người nghe, người đọc một tư tưởng, quan điểm nào đó. Văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục. Những tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị luận phải hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống, xã hội thì mới có ý nghĩa
Và bài văn trên có đủ các yếu tố cần có để là văn nghị luận.

b) Ý kiến đề xuất của tác giả: cần chống lại những thói quen xấu và tạo ra những thói quen tốt trong đời sống xã hội.

    Ý kiến đó được thể hiện trong các câu sau đây: đầu đề bài văn; “Cho nên mỗi người, mỗi gia đình hãy tự xem lại mình để tạo ra nếp sống đẹp, văn minh cho xã hội”.

    Để thuyết phục người đọc, tác giả nêu ra các lí lẽ sau đây:

     - Có thói quen tốt và thói quen xấu; 

     - Có người biết phân biệt tốt và xấu, nhưng vì đã thành thói quen nên rất khó bỏ, khó sửa;

     - Tạo được thói quen tốt là rất khó, nhưng nhiễm thói quen xấu thì dễ.

    Các dẫn chứng kèm theo:

      - Thói quen tốt: luôn dậy sớm, luôn đúng hẹn, giữ lời hứa, luôn đọc sách...

      - Thói quen xấu: hút thuốc lá, hay cáu giận, mất trật tự, mất vệ sinh (gạt tàn thuốc ra nhà, vứt rác bừa bãi), ném cả mảnh thủy tinh vỡ ra đường làm người khác bị thương...

    c)

- Bài văn nghị luận này nhằm giải quyết một vấn đề có thực trong xã hội: đó là vấn đề ăn  mất vệ sinh, không có ý thức thu gom rác vào một chỗ làm ô uế môi trường sống. 

- Ta thấy vấn đề tác giả nêu ra là đúng đắn. Mỗi người đều phải suy nghĩ để bỏ thói quen xấu, tạo nên các thói quen tốt.  

Câu hỏi trong lớp Xem thêm