Nêu hiện trạng việc khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển của nước ta

2 câu trả lời

  1. Hiện trạng khai thác, sử dụng tài nguyênmôi trường biển và hải đảo Việt Nam

 2.1. Hiện trạng khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản biển, đảo

Công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí của nước ta cũng ngày càng được đẩy mạnh và đạt được những thành quả nhất định; quy mô và phạm vi cũng được mở rộng từ vùng nước nông, ra các vùng nước sâu, xa bờ và một số điểm thuộc vùng biển Quốc tế. Khối lượng công tác thăm dò, khai thác dầu khí đã thực hiện trên toàn bộ vùng biển và thềm lục địa Việt Nam là khá lớn. Khảo sát điều tra cơ bản toàn bộ 160 lô, đo địa chấn 2D trên 158 nghìn km, đo địa chấn 3D là 50 nghìn km2. Nhiều bể trầm tích có triển vọng khai thác dầu và khí tự nhiên trên vùng biển và thềm lục địa nước ta; Đã phát hiện thêm nhiều lô dầu khí mới, xác định thu hồi 1,37 tỷ tấn quy dầu và tiềm năng khí các bể còn lại khoảng 2,6 - 3,6 tỷ tấn quy dầu. Kết quả công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí đã xác định được các bể/cụm bể trầm tích có triển vọng dầu khí: Sông Hồng, Phú Khánh, Hoàng Sa, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Trường Sa - Tư Chính - Vũng Mây, Malay - Thổ Chu và Phú Quốc, trong đó các bể: Sông Hồng, Cửu Long, Nam Côn Sơn và Malay - Thổ Chu đã phát hiện và đang khai thác dầu khí. Đến năm 2012, đã phát hiện thêm 02 mỏ dầu khí mới.

Kết quả khai thác dầu khí trong những năm, từ năm 2005 - 2012 đạt tốc độ tăng trưởng về sản lượng khai thác dầu thô giảm 1,7%/năm, sản lượng khai thác khí tự nhiên tăng 5,5%/năm và sản lượng dầu thô xuất khẩu giảm 9,1%/năm và tốc độ tăng về tỷ lệ sản lượng dầu thô xuất khẩu so với sản lượng dầu thô khai thác giảm 7,7%/năm. Trong giai đoạn năm 2005 - 2012, tổng sản lượng khai thác dầu thô trên thềm lục địa Việt Nam đạt 130,27 triệu tấn, khoảng 63,52 tỷ m3 khí tự nhiên và tổng sản lượng dầu thô xuất khẩu đạt 102,25 triệu tấn; bình quân mỗi năm trên thềm lục địa nước ta có thể khai thác được 16 triệu tấn dầu thô/năm, khoảng 7,9 tỷ m3/năm khí tự nhiên.

- Thực trạng khai thác quặng Titan ở vùng biển Việt Nam: Trong những năm gần đây do thị trường tiêu thụ titan và các khoáng sản đi kèm trên thế giới biến động mạnh theo chiều hướng gia tăng về giá cả; ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình khai thác sa khoáng titan ở nước ta. Hoạt động khai thác quặng titan tập trung nhiều ở một số địa phương như Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Đến nay, riêng ở các tỉnh Miền Trung có trên 50 đơn vị tổ chức khai thác, ở 38 khu mỏ và có 18 xưởng tuyển tinh quặng và đã được khai thác gần 8 triệu tấn quặng titan. Việc quản lý hoạt động khoáng sản được thực hiện thông qua các giấy phép khai thác do 2 cấp quản lý cấp cho các doanh nghiệp trong đó Bộ Công nghiệp (trước năm 2002) hoặc Bộ Tài nguyên & Môi trường (sau năm 2002) cấp giấy phép khai thác cho các mỏ lớn còn ở nông nghiệp (trước năm 2002) hoặc  ở Tài nguyên & Môi trường (sau năm 2002) cấp giấy phép khai thác cho khai thác tận thu khoáng sản.

-      Nghề sản xuất muối: Cả nước có 21 tỉnh sản xuất muối, trải dài từ Hải Phòng đến Cà Mau. Đến năm 2012, tổng diện tích sản xuất muối toàn quốc có 14.528,2 ha. Các tỉnh có diện tích sản xuất muối nhiều như tỉnh Bạc Liêu (2.774 ha), Ninh Thuận (2.380 ha), Bến Tre (1.431 ha), TP. Hồ Chí Minh (1.532,2 ha), Quảng Nam (35 ha), Thái Bình (60,51 ha). Diện tích sản xuất muối công nghiệp năm tập trung ở 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa.

 2.2. Hiện trạng khai thác, sử dụng tài nguyên và nguồn lợi thủy sản

Khai thác hải sản: Trong những năm qua, các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã tích cực chỉ đạo đẩy mạnh tổ chức sản xuất khai thác hải sản, trong đó tập trung vào tổ chức lại sản xuất, hiện đại hóa tàu cá, đẩy mạnh đánh bắt xa bờ, đổi mới và tăng cường năng lực khai thác thân thiện với môi trường, ứng phó với BĐKH và hướng tới phát triển bền vững. Đồng thời đẩy mạnh đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật nghề cá trên các vùng biển, các tuyến đảo xa, đảo tiền tiêu và đảo trọng yếu quốc gia như Hoàng Sa, Trường Sa, Bạch Long Vĩ, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quốc, Phú Quý; Nâng cao năng lực đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ trong khai thác hải sản. Trong giai đoạn từ năm 2007-2012, khai thác hải sản trên biển có những tăng trưởng đáng ghi nhận, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân về số lượng tàu thuyền tăng 4,3%/năm, công suất tàu thuyền tăng 3,6%/năm, sản lượng tăng 5,2%/năm và giá trị khai thác tăng 5,9%/năm.

Khai thác tiềm năng đất, nước để nuôi trồng thủy sản

 2.3. Hiện trạng khai thác, sử dụng tài nguyên năng lượng tái tạo

- Hiện trạng phát triển điện gió: Theo số liệu điều tra ban đầu của chính phủ, Việt Nam có khoảng 17.400 ha được đánh giá là thích hợp cho các dự án, công trình phát triển năng lượng gió. Thời gian qua, tại các tỉnh Bình Định, Ninh Thuận và Bình Thuận đã và đang đi tiên phong trong triển khai một số dự án phong điện, tiềm năng phát triển ở khu vực này khoảng hơn 8 nghìn MW.

Phát triển điện gió với đặc thù là phân tán, nhỏ lẻ, cục bộ, hiện đang được các doanh nghiệp trong và ngoài nước nghiên cứu đầu tư, song việc triển khai còn gặp rất nhiều khó khăn: Chưa có chính sách và các quy định, trợ giá trong việc mua điện từ nguồn năng lượng gió; Thiếu kiến thức và năng lực kỹ thuật để thực hiện một công trình điện gió hoàn chỉnh, cũng như các kỹ thuật cơ bản và dịch vụ đi kèm sau lắp đặt; Các Công ty Điện lực địa phương chưa sẵn sàng vào cuộc, việc xây dựng hạ tầng đáp ứng cho các dự án phong điện sẽ mất thời gian khá lâu.

- Hiện trạng phát triển điện thủy triều: Những vùng biển có tốc độ dòng chảy có vận tốc 2 - 3m/s sẽ tạo ra công suất 4 - 13kWh/m2. Qua áp dụng phương án xây dựng trạm điện thủy triều dạng sử dụng vận tốc dòng chảy trên vụng Hồng Vân - Cô Tô tỉnh Quảng Ninh, một thách thức hiện nay là chi phí xây dựng khá cao, khoảng gần 50 tỷ đồng/1 MW. Vì vậy, nếu Nhà nước cần có những ưu đãi và hỗ trợ nhất định về điều kiện và nguồn vốn thì để các nhà đầu tư có thể phát triển các dự án điện thủy triều.

2.4. Hiện trạng khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch

Hiện tại, hoạt động du lịch biển Việt Nam thu hút tới 80% lượng khách du lịch và khoảng 70% tổng số các điểm du lịch của toàn quốc. Với bờ điển dài trên 3.260 km, có nhiều bãi tắm đẹp và nhiều hang, vịnh kỳ thú như ở Móng Cái, Vân Đồn, Vịnh Hạ Long, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cửa Tùng, Vân Phong, Vũng Tàu…cùng có nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận là Vịnh Hạ Long, Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, đô thị cổ Hội An, khu đền tháp Mỹ Sơn và hang động Phong Nha - Kẻ Bàng. Những công trình kiến trúc, di tích lịch sử này, ngoài những giá trị khoa học, văn hóa truyền thống còn là những tiềm năng thu lợi lớn, nếu được đầu tư trùng tu tôn tạo kết hợp với ngành du lịch để khai thác. Trong vùng có nhiều bãi biển như Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên Cầm, Đá Nhảy, Cửa Tùng, Lăng Cô, Thuận An, Non Nước, Mỹ Khê, Nha Trang, Ninh Chữ, Mũi Né..., nhiều danh lam thắng cảnh như đèo Ngang, đèo Hải Vân, bán đảo Sơn Trà..., nhiều di tích lịch sử gắn liền với bề dày dựng nước và giữ nước như thành Huế, thành cổ Quảng Trị, Cửa Việt, Vĩnh Mốc, cảng Đà Nẵng, di tích Sơn Mỹ, Vạn Tường, Chu Lai,... Đó là những tiềm năng du lịch biển gắn với du lịch núi và du lịch văn hoá, du lịch nghỉ dưỡng,... tạo cho ven biển Việt Nam trở thành một vùng du lịch độc đáo, hấp dẫn khách du lịch và đưa ngành du lịch đang dần trở thành một ngành mũi nhọn, có ý nghĩa với cả nước.

2.5. Hiện trạng khai thác, sử dụng tài nguyên vị thế

Căn cứ vào tài nguyên vị thế, quy hoạch phát triển biển đảo đến 2020 đã chỉ ra một số đảo làm trọng điểm đầu tư, bao gồm: trọng điểm về kinh tế (Phú Quốc (Kiên Giang) và Vân Đồn (Quảng Ninh); Nhóm đảo có chức năng du lịch kết hợp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử là chủ yếu (Côn Đảo;  Nhóm đảo có chức năng phát triển kinh tế kết hợp với bảo đảm quốc phòng an ninh (Cô Tô - Thanh Lân (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Bình Thuận) và Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu));  Nhóm các đảo nhỏ khác, trong nhóm đảo này, đáng chú ý là các đảo: đảo Trần, Cảnh Cước, Thượng Mai, Hạ Mai (Quảng Ninh); Bạch Long Vỹ (Hải Phòng); Hòn Mê (Thanh Hóa); Hòn Mắt (Nghệ An); Cồn Cỏ (Quảng Trị); Hoàng Sa (Đà Nẵng); Trường Sa (Khánh Hòa); Hòn Hải (Bình Thuận); Thổ Chu, quần đảo Hà Tiên (Kiên Giang) và một số đảo khác...

2.6. Hiện trạng khai thác, sử dụng tài nguyên đất vùng biển, ven biển và đảo

Mặc dù chất lượng đất vùng ven biển không tốt, lại thường bị thiên tại đe doạ, song nhân dân trong vùng đã tận dụng khai thác tối đa những khu vực có điều kiện để phát triển sản xuất. Đặc biệt những năm gần đây, cùng với sự phát triển các thành phố và các khu công nghiệp ven biển, ngành nông - lâm nghiệp cũng có chuyển biến rõ rệt và đạt tốc độ tăng trưởng khá. Năm 2010, trong cơ cấu sử dụng đất nói chung, đất nông nghiệp chiếm 77,9%, đất phi nông nghiệp chiếm 13,3%, đất chưa sử dụng chiếm 8,8%. Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ, chiếm 0,8% tổng diện tích đất tự nhiên. Tuy vậy, thu hồi quyền sử dụng đất nông nghiệp từ nông dân giao cho các khu công nghiệp đã gặp nhiều khó khăn.

Bài viết đã phản ánh một cách tổng quát về tình hình khai thác và sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo Việt Nam đến năm 2013; những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, đảo Việt Nam.

Hiện trạng khai thác tài nguyên : 

+ Khai thác tài nguyên bừa bãi , lãng phí 

+ Có nhiều tỉnh chưa có sự cho phép của chính quyền đã tự ý khai thác tài nguyên 

+  Người dân còn chưa biết giữ gìn tài nguyên thiên nhiên 

Nhà nước đặt ra : 

+ Siết chặt những công ty , xí nghiệp gây hại đến môi trường , tài nguyên , khoáng sản 

+ Chính phủ đã tuyên truyền qua truyền thông , mạng , báo , tờ rơi khuyên người dân quý trọng tài nguyên và gìn giữ 

Bạn cho mk ctlhn nha ***

Câu hỏi trong lớp Xem thêm