Chúng ta đã và đang khai thác sông ngòi và cảnh quan như thế nào để phát triển kinh tế?

2 câu trả lời

Khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái

Trong những năm gần đây, kinh tế của các tỉnh Tây Nguyên có sự phát triển khá nhanh và vững chắc. Tuy nhiên, vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên như thế nào để vừa đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, vừa bảo vệ tốt môi trường đang là vấn đề cấp thiết cần được quan tâm nghiên cứu kỹ lưỡng vì chỉ có khai thác một cách hợp lý các tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ tốt môi trường sinh thái thì phát triển mới đạt mục tiêu nhanh, bền vững và lâu dài.

Tây Nguyên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai hướng gió chủ đạo là gió mùa Đông bắc thổi vào mùa khô (thường từ tháng XI năm trước đến tháng IV năm sau) và gió mùa Tây Nam thổi vào mùa mưa (từ tháng V đến tháng X). Tổng lượng bức xạ hàng năm đạt từ 120 - 140 Kcal/cm 2 ; độ ẩm không khí trung bình đạt 70 - 80% trong mùa khô, từ 80 - 90% trong mùa mưa; lượng mưa năm trung bình đạt xấp xỉ 1.800mm. Do ảnh hưởng của độ cao địa hình nên nhiệt độ ở Tây Nguyên có sự hạ thấp đáng kể so với nền nhiệt độ chung ở Miền Nam nước ta và cũng là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt đáng kể giữa các vùng. Ở những vùng núi cao trên 500m, nhiệt độ thấp hơn vùng đồng bằng cùng vĩ độ trên 3 0 C. Nhiệt độ trung thấp nhất thường xuất hiện vào tháng I và cao nhất xuất hiện trong tháng IV, biên độ nhiệt trung bình năm từ 4 - 5 0 C. Có thể nói, khí hậu ở Tây Nguyên tương đối hiền hòa: Mát mẻ, chan hòa ánh nắng, lượng mưa phong phú tạo thuận lợi cho sự sinh trưởng tươi tốt của nhiều loại cây trồng khác nhau, từ cây công nghiệp, cây ăn trái, cây nông nghiệp đến hệ sinh thái rừng.Là nơi khởi nguồn của các hệ thống sông: Ba, Sê San, Đồng Nai, Sê Rê Pốk và một số phụ lưu nhỏ của các sông Thu Bồn, Trà Khúc, Hinh và Sê Banh Hiêng, Tây Nguyên có một lượng nước mặt khá phong phú: 49,87 tỷ m 3 /năm. Mạng lưới sông suối khá dày, phân bố tương đối đều trên các lưu vực, lòng sông có độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh nên được đánh giá là nơi có tiềm năng thủy điện lớn của nước ta.Một trong những nguồn tài nguyên quý giá mà Tây Nguyên có được phải kể đến là tài nguyên đất. Đất ở đây khá bằng phẳng, ít dốc thuận lợi cho cơ giới hóa, sản xuất lớn tập trung. Trong 5.447.506 đất tự nhiên có 1,36 triệu ha đất đỏ BaZan, chiếm 25%, đây là loại đất mầu mỡ thích hợp với nhiều loại cây trồng có giá trị cao như cà phê, cao su, điều, ca cao, chè, hồ tiêu, dâu tằm, các loại cây ăn quả có giá trị, vv... bên cạnh đó còn có khoảng 1,8 triệu ha đất đỏ vàng, dù không được mầu mỡ như đất đỏ BaZan nhưng cũng khá tơi xốp và giữ ẩm tốt, có thể phát triển được nhiều loại cây trồng khác nhau. Tuy là miền núi, cao nguyên nhưng Tây Nguyên cũng có được khoảng 130.000 ha đất phù sa ven sông thích hợp cho phát triển cây lúa nước.Với độ che phủ đạt từ 55 - 60%, Tây Nguyên vẫn là nơi có diện tích và trữ lượng rừng vào hàng cao nhất so với các vùng khác trong cả nước. Hơn thế, rừng ở nơi đây rất đa dạng về chủng loại với nhiều kiểu rừng, nhiều loài cây, con có giá trị, có ảnh hưởng đặc biệt tới tài nguyên khí hậu thủy văn và tài nguyên đất. Hệ động, thực vật trong các khu rừng ở Tây Nguyên được xếp vào hàng phong phú nhất nước ta. Riêng thực vật có khoảng 4.500 loài thuộc 1.200 chi của 224 họ. Có nhiều loại thực vật có giá trị đặc biệt như Thông, Tuế lá chẻ, Thủy tùng, Quao xẻ tua và gạo lông men, vv… Rừng Tây Nguyên cũng là nơi quy tụ của nhiều cây dược liệu quý như Sâm Ngọc Linh, Sâm Bố Chính, Hà thủ ô trắng, Thiên niệm kiện, Sa nhân, Hoàng đán, Bách bộ,… Động vật ở rừng Tây Nguyên có 535 loài có xương sống, trong đó có 78 loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ của Việt Nam.Các ghi nhận gần đây cho thấy song song với quá trình phát triển kinh tế xã hội, tình trạng khai thác kiệt quệ, khai thác thiếu tính toán, ngoài tầm kiểm soát thậm chí phá hủy tài nguyên thiên nhiên đang diễn ra và còn có xu thế gia tăng. Quá trình tăng dân số nhất là tăng dân số cơ học đã làm gia tăng nhu cầu đất cho sản xuất và thế là rừng bị chặt phá, đất rừng trở thành đất nương dãy, đất nông nghiệp mà một phần trong đó chỉ sử dụng trong một thời gian rồi bỏ hoang. Đất mất đi sự bảo vệ của cây rừng đã nhanh chóng bị bào mòn, rửa trôi trở nên cằn cỗi, hoang hóa. Rừng bị tàn phá đã kéo theo một loạt thay đổi về sinh thái theo hướng không thuận lợi; kết hợp với sự tác động ngày càng mạnh mẽ của biến đổi khí hậu đã khiến cho nhiều vùng đất trở nên hoang hóa; tình trạng hạn hán và thiếu nước nghiêm trọng trong mùa khô liên tiếp diễn ra trong khi lũ lụt lại xuất hiện nhiều hơn, khốc liệt hơn trong mùa mưa. Con số thiệt hại do hạn hán trong các mùa khô gần đây lên đến hàng ngàn tỷ đồng; điển hình như hạn trong mùa khô 1997 - 1998 làm mất trắng trên 6.000 ha lúa, 11.000 ha cà phê, giảm sản lượng cà phê đến 100.000 tấn; mùa khô 2004 - 2005 đã làm thiệt hại khoảng 1.800 tỷ đồng, hơn 30% dân số trong vùng thiếu nước sinh hoạt trong nhiều tháng liên tục. Sau hạn hán, lũ lụt cũng đã hoành hành và gây thiệt hại nặng cho Tây Nguyên. Chỉ riêng lũ quét, từ năm 1990 đến nay đã có ít nhất 20 trận lũ quét, làm chết hơn 100 người, thiệt hại kinh tế từ vài chục đến hàng trăm chục tỷ đồng mỗi trận.Đã có nhiều ý kiến đề cập đến vấn đề phát triển kinh tế bề vững, vấn đề bảo vệ nguồn tài nguyên thiên thiên phong phú và các biện pháp phòng chống thiên tai hiệu quả cho Tây Nguyên. Các ý kiến đề đạt tuy đi theo nhiều hướng khác nhau nhưng tựu chung đều khẳng định trước hết phải bảo vệ được tài nguyên rừng. Phải có các biện pháp đồng bộ trong quản lý, bảo vệ và phát triển vốn rừng. Cần chấm dứt tình trạng chặt phá rừng lấy đất làm nương dãy đồng thời có cơ chế đầu tư hiệu quả cho công tác trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng các biện pháp nông lâm kết hợp, phát triển mạnh trồng cây phân tán; quy hoạch vùng cây xanh ở các khu đô thị khu dân cư tập trung. Tiếp đến là nghiên cứu sử dụng hợp lý tài nguyên đất. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi các mục đích sử dụng đất; cân đối diện tích các loại cây trồng sao cho phù hợp với tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khí hậu của mỗi vùng và đảm bảo cho hệ sinh thái phát triển bình thường. Về tài nguyên nước, các nhà khoa học cũng nhận thấy sông suối ở Tây nguyên mang trong mình tiềm năng thủy điện lớn do có điều kiện địa hình, địa chất khá lý tưởng, lượng nước phong phú. Bên cạnh những công trình thủy điện vừa và lớn đã và được đầu tư từ trung ương, việc các địa phương tích cực khảo sát xây dựng các công trình thủy điện nhỏ mở ra một hướng phát triển kinh tế mới, đưa công nghiệp thủy điện trở thành một trong những ngành kinh tế chủ lực. Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên nước cũng cần lưu ý: Hiện nay kinh tế nông - lâm nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo, trong đó đặc biệt là giá trị sản xuất của một số cây công nghiệp đã mang lại gần 70% GDP và gần 90% kim ngạch xuất khẩu của Tây Nguyên. Do vậy khai thác tài nguyên nước cần có sự cân đối giữa phục vụ nhu cầu tưới, nhu cầu sinh hoạt, chăn nuôi với phát điện, đồng thời bảo đảm khai thác lâu dài, hài hòa giữa thượng nguồn và hạ du. Cần chuyển đổi tình trạng khai thác nước ngầm tầng nông tự phát hiện nay sang hình thức quy hoạch khai thác nước ngầm tầng sâu theo hướng tập trung và có sự chỉ đạo quản lý chặt chẽ. Làm như vậy sẽ giúp tăng lượng nước sạch phục vụ cho sinh hoạt, chăn nuôi, hỗ trợ nước tưới, giảm được áp lực thiếu nước trong mùa khô đồng thời tránh được nguy cơ ô nhiễm và tụt giảm thái quá nguồn nước ngầm. Để thực hiện được những điểm nêu trên cần có những giải pháp mang tầm vĩ mô như: Rà soát lại quy hoạch phát triển kinh tế và quy hoạch sử dụng đất, đây là giải pháp đầu tiên mang tính đột phá cho phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng; Xây dựng cơ sở hạ tầng; Quy hoạch công nghiệp chế biến nông - lâm sản; Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học; Đầu tư tín dụng; Thị trường; Chính sách hỗ trợ sản xuất,

Sông ngòi:

- Mạng lưới sông ngòi Việt Nam dày đặc, đặc biệt ở phía Nam: sông hồng , sông cửu long

Cảnh quan:

- Việt Nam thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa : Vịnh Hạ Long

- Chúng ta đã và đang khai thác sông ngòi và cảnh quan:

+ Phát triển công nghiệp khai thác rừng, sản xuất đồ gỗ và giấy xuất khẩu.

+ Phát triển kinh tế biển : hàng hải và đánh cá, khai thác dầu khí ở Biển Bắc.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm