I. Định hướng kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích
- Trong phần Viết, các em đã được hướng dẫn cách viết bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích. Ở phần Nói và nghe, các em không viết thành văn mà kể lại truyền thuyết hoặc cổ tích đó bằng lời.
- Để kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích, các em cần:
+ Bám sát các sự kiện chính của truyện, nhưng cũng có thể sáng tạo thêm các chi tiết, hình ảnh, cách kết thúc truyện,...
+ Phân biệt kể miệng (văn nói) với kể bằng viết (văn viết); chú ý cách kể, giọng kể, kết hợp với ngôn ngữ hình thể (cử chỉ, ánh mắt, nét mặt,...) phù hợp với nội dung câu chuyện. Trong trường hợp cần thiết, người kể có thể sử dụng các thiết bị hỗ trợ (tranh, ảnh, video,...).
II. Hướng dẫn quy trình nói kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích
1. Chuẩn bị
- Đọc lại truyện.
- Sắp xếp tranh ảnh hoặc các phương tiện hỗ trợ khác (nếu có).
2. Tìm ý và lập dàn ý
- Xem lại dàn ý đã chuẩn bị ở phần Viết để bổ sung, chỉnh sửa.
- Chú ý kiểm tra các sự kiện chính, các yếu tố sáng tạo trong nội dung kể lại câu chuyện.
3. Nói và nghe
- Dựa vào dàn ý và thực hiện việc kể lại truyện trước tổ hoặc lớp.
- Chú ý đảm bảo nội dung và cách kể để câu chuyện trở nên hấp dẫn.
4. Kiểm tra và chỉnh sửa
Nhớ lại, rút kinh nghiệm về nội dung câu chuyện và cách kể chuyện:
- Người nói xem xét lại nội dung và cách nói của bản thân.
+ Nội dung truyện đã đầy đủ chưa? Còn thiếu những gì?
+ Nội dung, chi tiết, lời kể và cách kể của mình có gì sáng tạo?
+ Về cách kể: Giọng kể, điệu bộ...thế nào?
- Người nghe tự đánh giá cách nghe của bản thân.
+ Đã hiểu và nằm được nội dung chính của câu chuyện được nghe chưa? Có nhận xét được về yếu tố sáng tạo trong lời kể của bạn không?
+ Thái độ khi nghe bạn kể chuyện thế nào?
III. Ví dụ kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích
* Thay vì vào bài trực tiếp, chúng ta có thể mở bài gián tiếp
+ Trong chuyến đi: Nhân một chuyến du lịch Hà Nội, đến thăm Hồ Gươm, tôi đã được chú/cô hướng dẫn viên kể lại câu chuyện về sự tích nơi này.
+ Khi làm bài tập: Khi được yêu cầu viết một vài văn kể lại câu chuyện truyền thuyết ưa thích, tôi đã nghĩ ngay đến Thánh Gióng.
+ Trong sinh hoạt gia đình: Cha mẹ tôi luôn dạy tôi phải trân trọng lịch sử. Tôi đã được nghe không biết bao nhiêu câu chuyện truyền thuyết, cổ tích trong những bữa ăn/buổi đi chơi. Tối qua, tôi được mẹ kể về Thánh Gióng.
....
* Sau đó dẫn vào câu chuyện:
Đó là câu chuyện từ thời Hùng Vương thứ 6, tại làng Gióng. Có một đôi vợ chồng già vô cùng chăm chỉ, đức hậu nhưng mãi chưa có được mụm con nào. Thế rồi một hôm, bà lão trông thấy một vết chân rất to trên nền đất nên tò mò ướm thử chân vào. Nào ngờ không lâu sau bà mang thai. Điều kì lạ chưa dừng ở đó. Bà lão mang thai đếm 12 tháng mới sinh được cậu con trai rất khôi ngô, tuấn tú. Thế nhưng, cậu bé lên 3 rồi mà vẫn chưa thấy nói, thấy cười hay thấy đi, cứ đặt đâu thì nằm đó. Thời đó, quân Minh hung bạo sang xâm lược nước ta. Nhân dân rơi vào cảnh lầm than, chiến tranh liên miên. Thấy vậy, nhà vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi. Nghe vậy, cậu bé lên 3 ấy liền cất những câu nói đầu tiên trong cuộc đời ''Mẹ ra mời sứ giả vào đây''. Khi sứ giả vào, cậu bé bảo ''Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.''. Nhà vua nghe vậy liền cho thợ làm gấp những vật mà cậu bé dặn dò. Lạ hơn là, sau ngày hôm đó, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mãi không no, áo vừa mặt đã đứt chỉ. Hai vợ chồng làm lụng bao nhiêu cũng không đủ nuôi người con nên phải đành nhờ cậy hàng xóm. Bà con xung quanh đều vui lòng góp gạo nuôi bé vì ai cũng muốn quân giặc sớm bị tiêu diệt. Khi sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến cũng là lúc thế nước đang rất nguy vì giặc đã đến gần chân núi Trâu. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng trở thành một tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc để đón đầu chúng. Người tráng sĩ lúc này đánh hết lớp giặc này đến lớp giặc khác. Roi sắt gãy thì nhanh trí nhổ cụm tre cạnh đường mà quật giặc đến tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau mà tháo chạy, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc. Đến đó, người cởi áo giáp sắt, một mình một ngựa từ từ bay lên trời. Cảnh ấy mới thật tráng lệ, hùng vĩ làm sao. Sự góp sức chống giặc của người tráng sĩ được vua nhớ công mà phong là Phù Đổng Thiên Vương. Vua ban lệnh lập đền thờ ngay ở quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng (hay còn gọi là làng Gióng). Mỗi năm khi đến tháng Tư, làng mở hội to. Nhiều người kể rằng, những bụi tre đằng ngà vì ngựa phun bị cháy mới ngả sang màu vàng óng như vậy, còn những vết chân ngựa lại thành những ao hồ liên tiếp Người ta còn truyền nhau rằng, khi ngựa thét ra lửa đã thiêu cháy một làng cho nên gọi đó là làng Cháy.
* Có thể kết thúc ở đó hoặc mở rộng thêm một số ý như sau:
+ Ý nghĩa truyền thuyết: Truyền thuyết Thánh Gióng mang theo ước mơ về người anh hùng chống giặc của nhân dân ta. Đồng thời cũng cho thấy tinh thần kiên cường, bất khuất, không ngại chiến đấu để bảo vệ bờ cõi dân tộc.
+ Kết lại hoàn cảnh mở chuyện: Đi du lịch (Buổi thăm quan đến đó là kết thúc, sau khi về nhà trong đầu tôi vẫn không thôi hiện lên hình ảnh về hồ Gươm); trong sinh hoạt (Khi ăn xong bữa cơm, vì quá hứng thú trước câu chuyện mẹ kể mà tôi đã lên mạng tìm hiểu ngay về nó. Càng tìm hiểu, tôi lại càng yêu mến lịch sử, văn hóa nước mình. Tôi đã đề nghị mẹ cho mình một chuyến đi tham quan đến hồ Gươm nếu như đợt tới điểm kiểm tra của tôi đạt 9.0.)....
+ Bài học bản thân/Liên hệ bản thân: Qua câu chuyện, tôi hiểuđược sự nghiệp gian khổ bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, với trách nhiệm của một người công dân nói chung và người học sinh nói riêng, em tự nhắc nhở bản thân phải không ngừng học tập, rèn luyện đạo đức để góp phần nhỏ bé xây dựng đất nước.